Khái niệm về thuỷ hoả:Mọi thứ trong trời đất dù là vô hình, hữu hình đều do sự vận động của trời đất mà có, hay nói cách khác là do có sự giao hợp lẫn nhau giữa khí trời và khí đất. Khí trời là dương, trong khí trời có cả ảnh hưởng của mặt trời. Đất là âm, trong khí đất có cả hơi nước ở đất. Khí trời, khí đất là khí vô hình; ánh lửa, hơi nước là khí hữu hình. Vì thế khi nói là khí âm dương là đã có sự trung hoà lẫn nhau giữa khí và chất. Khí là dương, chất là âm. Trong chất là âm có ánh lửa thuộc dương, hơi nước thuộc âm, trong khí dương có khí trời thuộc dương, khí đất thuộc âm. Đó là trong dương và âm đều có âm dương. Nội kinh viết: Trời đất lấy 2 khí âm dương mà hoá sinh muôn vật. Con người lấy 2 khí âm dương mà nuôi sống mọi nơi. Trời đất hoá dục muôn vật đều phải do sự xâm nhập của khí âm dương trong bốn mùa, rồi mới có thể phát triển được công năng: sinh trưởng, thu, tàng; để làm chung thuỷ cho muôn vật. Vì vậy trời đất lấy 2 khí âm dương mà hoá sinh muôn vật. Thuỷ hoả là chỗ bình hiện rõ ra của âm dương, mà âm dương là tính hình của thuỷ hoả. Như vậy thông qua thuỷ hoả mới hiểu được âm dương và cũng thông qua âm dương mới hiểu được sự tương quan và tác động lẫn nhau giữa thuỷ và hoả. 1) Thuỷ – hoả trong thiên nhiên. Thuỷ là nước, chỗ nhiều nước nhất là biển; gốc của nước là mặn. Nước còn có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ khác nhau: nước thể lỏng, hơi, mây, mù, sương, mưa, tuyết, nước trong đất, nước ở trong động vật và thực vật. Nước ở trong không gian: sông, ngòi, suối… Hoả là lửa, chỗ có nhiều lửa nhất là mặt trời. Lửa có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ khác nhau: lửa mặt trời, lửa trong lò, trong lòng đất, trong sấm, chớp… Thuỷ hoả luôn có hai mặt đối lập nhau về thể, tính, năng, dụng: 2) Sự giao hợp của thuỷ hoả: Mọi sự sống trên trái đất đều do sự giao nhau của thuỷ và hoả. Mặt trời chiếu xuống, hơi nước bốc lên, thì mới có mây mưa- mới có mọi sinh vật trên trái đất. Nội kinh viết: “Thanh dương là trời, trọc âm là đất, khí đất bốc lên thành mây, khí trời giáng xuống thành mưa, mưa làm ra bởi địa khí, mây làm ra bởi thiên khí”. Đã nói rõ khí âm dương có “hô giao” rồi sau mới thành được cái biến hoá nay lên mưa xuống, để hoá sinh ra muôn vật. Ta thấy mọi sự sống đều phải nhờ có mặt trời, có nước. Nếu chỉ có mặt trời mà không có nước thì tất cả sẽ bị đốt khô hoặc nếu chỉ có nước mà không có mặt trời thì tất cả tối tăm lạnh lẽo thì làm gì có sự sống được. Cho nên mọi sự sống xuất hiện đều do ở sự giao tiếp lẫn nhau giữa thuỷ và hoả. Thuỷ hoả giao nhau gọi là thuỷ hoả ký tế, ký tế thì sinh ra vật. Ngược lại thuỷ hoả không giao tiếp với nhau gọi là thuỷ hoả vị tế. Ánh sáng mặt trời nuôi sống mọi vật gọi là ôn dưỡng, nước nuôi sống muôn vật gọi là nhu dưỡng. Ôn là ấm không phải là nóng, nhu là mát chứ không phải là ướt… làm có sự ôn, sự nhu là nhờ có thuỷ hoả giao nhau. Sự sống được bình thường là do ôn dưỡng và nhu dưỡng luôn luôn ở trong sự cân bằng tương đối. Ví dụ: Thân nhiệt của con người 370C là nhờ sự cân bằng giữa hai quá trình ôn nhu. 3) Thuỷ hoả trong con người: Trong cơ thể con người, làm nền sự ôn dương gọi là dương khí, làm nền sự nhu dưỡng gọi là âm huyết. Dưỡng khí, âm huyết luôn luôn tồn tại và hỗ căn lẫn nhau, hai mà một, một mà hai. Đó là sự hiện hình của âm dương, cũng là thực thể của thuỷ hoả giao hợp với nhau trong nhân thể. Thuỷ hoả tiên thiên là nguồn gốc sinh ra con người. Từ nam giới (dương) và nữ giới (âm), có giao hợp thì mới sinh được con cái. Âm dương có giao nhau thì thuỷ hoả mới tụ lại, bốn thứ ấy hợp lại là một thì gọi là giao khí, giao khí; là thứ khí có từ ban đầu gọi là nguyên khí, cũng gọi là bẩm khí tiên thiên… Từ khí có bẩm khí tiên thiên mới phát triển thành hình thể và thần khí của con người. Hình thể là âm từ thuỷ mà hoá thành, thần khí là dương mà sinh ra. Chính vì có âm dương; thuỷ hoả giao hoà lẫn nhau mà thể ôn của người ta là 370C. Mỗi khi âm, dương; thuỷ, hoả mất cân bằng thì thể ôn của người sẽ thay đổi và khi không còn thể ôn nữa là chết. Thuỷ hoả trong bẩm khí tiên thiên gọi là chân thuỷ, chân hoả. Chân tức là khí chân nhất (chân là thực, nhất là 1, một là số bắt đầu và tạo nên mọi số), mọi sự hoá sinh của con người đều bắt nguồn từ khí chân nhất ấy, đó là nguồn gốc của mọi hoạt động sinh lý. Chân thuỷ, chân hoả là thuỷ hoả vô hình, tuy là vô hình nhưng luôn luôn tồn tại trong cái hữu hình và thể hiện ra cái hữu hình. Cho nên chúng ta có thể biết được nó bằng cách theo dõi diễn biến của nó ở cái hữu hình. Ví dụ: – Thuỷ suy không giữ được hoả- hoả bốc lên: có biểu hiện: có bốc nóng, nhức đầu, hoa mắt, đỏ mặt, nóng ngực, khó thở, tim đập nhanh… – Hoặc hoả suy-thiếu sự ôn dương, có biểu hiện: người lạnh, chân tay lạnh, ăn uống chậm tiêu, đầy bụng, ỉa lỏng, người mệt mỏi, sợ lạnh… Người ta vì có chân thuỷ, chân hoả trong bẩm khí tiên thiên nên trong cơ thể mới luôn luôn có sự ôn dưỡng và nhu dưỡng. Nhưng để thực hiện việc ôn dưỡng và nhu dưỡng khí với huyết chứ không phải chân thuỷ, chân hoả. Chân thuỷ, chân hoả là cái gốc bẩm sinh từ tiên thiên mà do thận làm chủ. Khí huyết là cái ngọn; sinh ra từ hậu thiên do tâm can, tỳ phế là chủ về khí. Có chân thuỷ, chân hoả mới có nguồn sinh ra khí huyết, có khí huyết thì chân thuỷ, chân hoả mới có công dụng hoá sinh và tồn tại. Cho nên khi nói đến khí là có sự liên hệ đến hoả đến dương; khi nói đến huyết là có sự liên hệ đến thuỷ đến âm. Hải Thượng Lãn Ông nói; “Toàn bộ nhan thể không ra ngoài hai chữ âm dương tức là thuỷ với hoả, mà hai chữ thuỷ hoả tức là khí huyết”. Định lý trong học thuyết thuỷ hoả: 1. Nguồn gốc của học thuyết thuỷ hoả: Học thuyết thuỷ hoả hay là học thuyết tâm thận do Hải Thượng Lãn Ông, danh y nước ta thế kỷ XVIII dựa trên định lý đã xây dựng nên. Trên cơ sở đó Ông đưa ra phương pháp trị liệu “Giáng tâm hoả, ích thận thuỷ” làm phương châm điều hoà 2 quá trình “thuỷ hoả”, lập lại cân bằng âm dương, làm tiêu tán bệnh tật. Với phương châm đó Hải Thượng Lãn Ông đã sử dụng thành công 2 bài thuốc cổ phương: lục vị và bát vị để bổ thuỷ, bổ hoả; đồng thời ông là người đã sử dụng pháp biến phương tinh thông từ bài thuốc này để điều trị hơn 50 chứng và bệnh. Ông nói: “Nhà y mà không hiểu rõ chân tướng của tiên thiên thái cực, không nghiên cứu tác dụng thần diệu của thuỷ hoả vô hình mà không thể trọng dụng được những bài thuốc hay như lục vị, bát vị làm thuốc còn thiếu sót hơn một nửa”. 2. Dịch lý trong học thuyết thuỷ hoả: Người xưa cho rằng: con người là một vũ trụ nhỏ, trước khi hành thành con người chỉ có khí âm dương của cha mẹ. Đó là giai đoạn tiên thiên, cũng như mô hình của vũ trụ là giai đoạn âm dương biến ra ngũ hành. Vì vậy học thuyết âm dương ngũ hành là học thuyết bao quát của hai giai đoạn của vũ trụ khi âm dương đã biến hoá ra ngũ hành thành thế giới có hình thì hành thuỷ được sinh ra trước tiên, cho nên ứng với số 1. Vũ trụ đã có âm phải có dương, cho nên hành hoả sinh ra tiếp theo và ứng với số 2. Tiếp đó hành mộc ứng với số 3, hành kim ứng với số 4 và hành thổ ứng với số 5. Cũng như vũ trụ có 5 hành thì con người cũng có 5 tạng. Con người hình thành bắt đầu từ tạng thận tượng tạng với hành thuỷ, sau đó mới đến các tạng khác. Con người cũng như vạn vật hữu hình theo dịch học là thuộc thế giới hậu thiên. Trong tượng hình “tiên thiên bát quái” thì trục nam bắc là hai quẻ ly khảm, tương ứng với con người là trục tâm thận. Theo ngũ hành thì tâm thuộc hoả, thận thuộc thuỷ. Hoả là quẻ ly, phương vị là phía nam; thuỷ là quẻ khảm, phương vị là phía bắc trong hậu thiên đồ. Vì vậy trục tâm thận của con người ứng với trục ly khảm của vũ trụ. Dựa theo mô hình âm dương ngũ hành của định lý, Hải Thượng Lãn Ông đã xây dựng nên học thuyết thuỷ hoả hay học thuyết tâm thận. Ông viết: “Tạng tâm thuộc quet ly, có một hào âm ở giữa hai hào dương” () vả lại trong tâm chứa máu đỏ tức là chân âm. Còn tạng thận thuộc về quẻ khảm () có một hào dương giữa hai hào âm, hơn nữa trong tạng thận có chứa tướng hoả là chân dương vậy. Tạng thận thuộc hành thuỷ tạng tâm ở trên; tạng tâm thuộc hành hoả thời tương giao với tạng thận. Như vậy theo quẻ “ký tế” tạng thận lại vận dụng ở trên mà tạng tâm lại truyền tống ở dưới”. Theo ông thuỷ hoả là gốc sinh ra con người, tác dụng của thần minh; thuỷ là nguồn của hoả, hoả là chủ của thuỷ. Thuỷ hoả phải cân bằng mà không nên chênh lệch, nên giao hợp mà không nên phân chia, tính hoả bốc lên, nên bắt cho đi xuống; tính thuỷ thấm xuống nên khiến cho đi lên; thuỷ lên hoả xuống gọi là giao nhau. Hoả tức là dương khí, thuỷ tức là âm tinh; Hai thứ ấy sánh đôi gọi là âm dương hoà bình cũng gọi là thiếu hoả sinh khí, thăng bằng. Thì thuỷ hoả giúp nhau. Hoả tức là khí chân dương, khí chênh lệch thì dương khí bị kích thích mà thành ra hoả; thủy với nguyên khí không cùng sánh đôi được mà sinh ra hiện tượng bệnh tật. | |
|