ĐẠI CƯƠNG
Chẩn đoán học của Y học cổ truyền là dùng các phương pháp Tứ chẩn : nhìn, nghe, hỏi, sờ nắn, bắt mạch để khai thác các triệu chứng bệnh rồi căn cứ vào Bát cương qua vị trí (Biểu lý), tính chất (hàn nhiệt), trạng thái (hư thực) và xu hướng chung (âm dương) của bệnh để quy nạp thành các hội chứng các tạng phủ, kinh lạc…
Nội dung chẩn đoán học của Y học cổ truyền gồm :
– Tứ chẩn : 4 phương pháp để khám bệnh : vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết (xem mạch, sờ nắn.
– Bát cương : 8 cương lĩnh để chẩn đoán vị trí (Biểu lý), tính chất (hàn nhiệt), trạng thái (hư thực) và xu thế chung của bệnh (âm dương).
– Các hội chứng về bệnh.
TỨ CHẨN
Tứ chẩn là 4 phương pháp nhìn, nghe, hỏi và sờ nắn, xem mạch để tập hợp được đầy đủ các triệu chứng đang biểu hiện trên người bệnh.
Sự tập hợp triệu chứng đầy đủ, sẽ giúp người thầy thuốc hệ thống hóa được dễ dàng, để thực hiện việc chẩn đoán bệnh thuộc hội chứng nào của Bát cương, bệnh của tạng phủ, kinh lạc nào, do nguyên nhân nào gây ra. Từ đó mà quyết định phương pháp điều trị cho thích hợp.
VỌNG
1.XEM TỔNG QUÁT
Quan sát tỉ mỉ thần, sắc, hình thái, mặt, lưỡi… của người bệnh, sẽ giúp thầy thuốc sơ bộ thấy cần đi sâu, nắm vững những vấn đề gì để biết được tình hình bệnh tật trong cơ thể phản ánh ra ngoài. Y học cổ truyền rất chú trọng đến việc xem xét các bộ phận ở mặt, mắt, lưỡi… vì có quan hệ nhiều với các tạng phủ.
– Xem thần : Thần là sự hoạt động về tinh thần, ý thức và sự hoạt động của các tạng phủ bên trong cơ thể, biểu hiện ra bên ngoài.
+ Còn thần : Mắt sáng, tỉnh táo, hoạt động có ý thức … là dấu hiệu chính khí chưa suy sụp, bệnh nhẹ, chữa dễ và có khả năng khỏi.
+ Mất (thất) thần : Tinh thần mỏi mệt, thờ ơ, nói không đủ sức… là dấu hiệu chính khí suy, bệnh nặng, khó chữa hoặc chữa lâu ngày.
Do đó, thiên ‘Thiên Niên ‘ (LKhu 55) viết : “Còn thần thì sống, mất thần thì chết”.
Một số người bệnh trạng thái nặng, bệnh lâu ngày, cơ thể quá suy yếu đột nhiên tinh thần tỉnh táo, muốn ăn uống, gò má đỏ là dấu hiệu chính khí muốn thoát, bệnh tình nguy hiểm, Y học cổ truyền gọi là hiện tượng “Hồi quang phản chiếu” hoặc “Giả thần”.
2.. XEM SẮC
Thường xem sắc ở mặt, người bình thường sắc mặt sẽ tươi nhuận, ngược lại khi có bệnh thường có sự thay đổi, căn cứ trên những sự thay đổi đó có thể biết được phần nào trạng thái bệnh lý ở tạng phủ liên hệ.
– Sắc đỏ : hỏa sinh nhiệt, do đó, sắc đỏ biểu hiện cho sự viêm nhiệt. Tuy nhiên cần phân biệt giữa thực nhiệt và hạ nhiệt.
+ Thực nhiệt gây đỏ bừng cả mặt, kèm theo sốt cao, sốt toàn thân.
+ Hư nhiệt, chỉ ửng đỏ ở 2 gò má, người gai rét chứ không sốt, thường gặp trong các chứng âm hư.
– Sắc vàng : Thiên ‘Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận’ (TVấn 5) ghi : ” Sắc vàng là sắc của Tỳ”, Tỳ hư kém, sắc vàng sẽ đục tối khác với sắc vàng tươi nhuận của Tỳ khí sung mãn, ‘Tỳ ố thấp’, Tỳ ứ không kiện được thủy thấp, thủy thấp đình trệ lại, khí huyết giảm sút, da không được nuôi dưỡng nên có màu vàng.
Chứng vàng da (Hoàng đản), sắc vàng tươi sáng là do thấp nhiệt (vàng da do nhiễm khuẩn), nhưng sắc vàng tối là do hàn thấp (vàng da do ứ mật, tan huyết).
– Sắc trắng thường do hư, hàn, thiếu máu.
– Sắc đen xám, u tối thường do thận hư, thận hư tinh khí suy kiệt, không vận hóa được thủy thấp làm máu huyết ngưng trệ gây ra xám đen.
Nhìn vào đồ hình Thái cực áp dụng trên khuôn mặt, áp dụng màu sắc vào để xem ta thấy :
+ Cằm : tượng trưng cho thận, nếu thấy màu đen xám là dấu hiệu thủy của thận suy.
+ Trán tượng trưng cho tâm, thấy có màu đen xám là dấu hiệu thủy của tâm suy…
Căn cứ vào màu sắc, vị trí các bộ phận tương ứng, có thể biết được rồi loạn bệnh lý ở cơ quan tạng phủ liên hệ.
3. XEM HÌNH THÁI (Hình Dáng, Tư Thế, Cử Động)
Xem hình dáng để biết tình trạng sức khỏe của tạng phủ, qua các biểu hiện có liên hệ đối với cơ quan tạng phủ đó.
Thí dụ : Xem da lông để biết trạng thái của Phế (Phế chủ da lông), xem răng để biết trạng thái của thận (Vì thận chủ xương, răng…).
Xem tư thế cử động của người bệnh để biết trạng thái tổng quát thuộc âm hay dương chứng. Thí dụ : người bệnh ưa rên rỉ, hay cáu gắt… thuộc dương chứng. Người bệnh thích nằm yên, không ưa ánh sáng, tiếng động… thuộc âm chứng.
4. XEM MŨI
Chủ yếu xem hình dạng của mũi để chẩn đoán trạng thái hư yếu hoặc bất thường của phế vì phế khai khiếu ở mũi.
Thí dụ : 2 cánh mũi phập phồng, do Mộc đó phế vượng (hay gặp trong chứng viêm phổi, hen suyễn…).
Ngoài ra, có thể dựa vào nước mũi để chẩn đoán tình trạng rối loạn : chảy nước mũi trong là dấu hiệu thủy của phế suy, hay gặp trong chứng cảm phong hàn…
5. XEM MÔI
Môi đỏ hồng là nhiệt, môi nhợt nhạt là huyết hư, môi xanh tím là huyết ứ. Ngoài ra Tỳ khai khiếu ra ở môi miệng, do đó, môi lở loét là dấu hiệu hỏa của Tỳ vượng, môi thâm đen là dấu hiệu thủy của Tỳ suy…
6.- XEM DA
Tìm những dấu vết xuất hiện trên da để suy đoán được những rối loạn chức năng ở vùng tương ứng.
Theo tạp chí Spounik số 9/1984, các nhà nghiên cứu đã tìm ra 10 chức năng của da. Sự bảo vệ chống ánh sáng quá nhiều là 1 trong những chức năng đó. Sự nhiễm sắc, đậm màu khác nhau, những vết Ban, những nốt ruồi, mụn cơm xuất hiện trên da đều có liên hệ đến cơ quan tạng phủ tương ứng.
Da mặt tương ứng với đoạn trên của Thân não.
Những đoạn não tủy được phản chiếu trên da cổ và bàn tay…
Như vậy, tất cả sự thay đổi ở da (vết nám, mụn cơm , mụn ruồi…) đều có thể cho thấy sự rối loạn hoặc suy yếu của 1 bộ phận cơ quan bên trong.
7.- XEM TAI (NHĨ CHẨN)
Theo Nogier, loa tai đại biểu cho hình thái của bào thai lộn ngược trong tử cung người mẹ, đầu chúc xuống, chân ở trên. Được phân bổ như sau :
BỘ PHẬN Ở TAI | CƠ QUAN TẠNG PHỦ TƯƠNG ỨNG |
Dái Tai | Đầu, Trán, Mắt, Mũi, Miệng, Chẩm |
Đôi Vành Tai | Chi Dưới |
Chân Vành Tai | Bụng, Ngực, Sống Lưng |
Xoắn Tai Dưới | Đại Trường, Tiểu Trường, Ruột Dư, Bàng Quang, Thận, Tụy, Túi Mật, Gan, Lách |
Thành Trong Bình Tai | Tâm Vị, Thực Quản, Tim, Phổi |
Thuyền Tai | Chi Trên |
Hố Tam Giác | Tử Cung, Đầu Gối |
Dựa vào vị trí, sự thay đổi các dấu hiệu báo bệnh trên các vùng ở loa tai, có thể suy đoán bệnh lý ở cơ quan tạng phủ có liên hệ.
Thí dụ : Sụn tai ở chân vành tai, tương ứng với cột sống, thấy có dấu hiệu báo bệnh xuất hiện ở vùng này (mụn ruồi, tàn nhang, điện trở thay đổi…) có thể chẩn đoán cột sống người bệnh đang bị rối loạn, bệnh…
– Các bác sĩ ở Canada và Mỹ cho biết : những đường nhăn xuất hiện ở vành tai dưới của những người dưới 60 tuổi có thể là dấu hiệu của bệnh tắc mạch máu cơ tim.
– Nicholas Patrakis, 1 nhà huyết học, khi nghiên cứu về di truyền học đã nhận thấy : những phụ nữ có ráy tai ướt, dễ bị ung thư vú hơn ráy tai khô. Theo ông, giữa vú và tai có liên hệ : cả 2 đều có những loại tuyến tương tự và đều tiết dịch như nhau. Ông làm thí nghiệm : Hút dịch ở vú và nhận thấy : hầu hết phụ nữ da trắng thường chỉ cần được hút trong vòng 10-15 giây là đã có sữa non, trong khi đó, hầu hết phụ nữ Á châu cho sữa non ở nhịp độ chậm hơn nhiều. Và điều quan trọng là người phụ nữ nào tiết sữa non nhanh đều có ráy tai ướt.
8.- XEM MẮT (NHÃN CHẨN)
Mắt cũng là 1 vùng phản chiếu của cơ thể, do đó qua mắt có thể biết được phần nào trạng thái rối loạn của cơ quan tạng phủ tương ứng.
Theo các công trình nghiên cứu của Trung Quốc, mắt có liên hệ với ngũ tạng như sau :
Ngũ Tạng | Nhãn Chẩn Của Trung Quốc |
Can | Tròng Đen |
Tâm | Thịt 2 Bên Khoé Mắt |
Tỳ | Mi Mắt |
Phế | Tròng Trắng |
Thận | Con Ngươi |
– Theo Nội Kinh : “Can khai khiếu ở mắt” do đó mắt có màu đỏ, mắt sưng là dấu hiệu hỏa của can vượng, mắt mọc thịt, có mộng là dấu hiệu thổ của can vượng…
– Theo Giáo sư Oshawa, những người có mắt Tam Bạch Đản thường chết bất đắc kỳ tử (chết bất ngờ).
– Theo tạp chí Spounik số 9/1984, giáo sư Valkhover, đại học y khoa Lumunba, cho rằng : mống mắt cũng có một vùng phản chiếu tương ứng của cơ thể. Theo ông, tổn thương ở 1 cơ quan tạng phủ sẽ phát ra tín hiệu tạo thành xung động thần kinh qua dây thần kinh đến vùng phản chiếu tương ứng ở mống mắt, tạo nên ở mống mắt những vết nhiễm sắc nhạt và ánh sáng sẽ lọt qua nhiều hơn bình thường. Ở giai đoạn mãn tính, những vết này sẽ có màu sẫm nên nhu cầu về ánh sáng giảm bớt… Do đó, những thay đổi về màu sắc ở mống mắt sẽ cho biết về giai đoạn của quá trình viêm nhiễm ở 1 cơ quan tạng phủ tương ứng nào đó tương ứng.
Màu sắc của mắt cũng rất quan trọng vì mắt là nơi điều tiết ánh sáng : chỉ cho lọt vào mắt 1 lượng ánh sáng cần thiết. Những người mắt màu xanh cho ánh sáng qua nhiều hơn so với người mắt sẫm. Như vậy, nếu người có cặp mắt lợt, rời bỏ khí hậu quen thuộc của mình đang sống tức là vùng ít nắng để đi sống ở vùng nhiều nắng hơn sẽ dễ bị kích thích quá đáng, dễ gây ra co giật, huyết áp cao. Trái lại, người mắt đen, đang sống ở vùng nhiều ánh sáng, đi đến vùng ít nắng hơn, sẽ trở thành nhu nhược lười biếng mệt mỏi…
Qua thí nghiệm sự nhạy cảm ánh sáng của mắt, các nhà nghiên cứu nhận thấy : người có giác mạc xanh nhạy cảm ánh sáng hơn người mắt nâu sẫm 3 lần và hơn giác mạc đen 4 lần. Như vậy có thể dùng chỉ số này làm tiêu chuẩn để đánh giá sự nhạy cảm của tất cả cơ thể. Thí dụ : muốn cho thuốc đem lại hiệu quả tốt trong việc điều trị, liều lượng thuốc đối với người mắt đậm có thể phải nhiều và mạnh hơn so với người mắt lợt.
Hình dáng của mắt có 1 vai trò trong sự điều hòa ánh sáng. Người ở vùng nhiều nắng, hay tiếp xúc với ánh nắng (công nhân lao động ở công trường…) trán thường trợt ra sau, vành xương chân mày lồi, mắt nhỏ và sâu. Ngược lại người ở vùng ít nắng. Ít tiếp xúc với ánh sáng (người bệnh nặng phải ở trong nhà, nơi ẩm thấp thiếu ánh sáng…) thường có mặt bẹt, hốc mắt rộng và đôi mắt to.
Lông mi và lông mày cũng giúp điều tiết ánh sáng cho mắt, che bớt ánh sáng vào mắt, do đó, 1 cơ thể yếu, không những sợ quá nhiều ánh sáng mà còn không chịu nổi lượng ánh sáng mà người khác coi là cần thiết, chính vì thế họ có lông mi dài và nhiều.
9.- XEM LƯỠI (THIỆT CHẨN)
Lưỡi là 1 tổ chức cấu tạo bởi nhiều cơ trơn hợp thành. Các lớp niêm mạc, nhất là phía trên lưỡi, tạo thành rêu lưỡi. Các dây thần kinh mạch máu và các nhú dạng chỉ (Pulpilae Folifermis) của lưỡi rất nhậy, do đó các thay đổi chức năng tiêu hóa, thể dịch tình trạng cơ thể… có thể phản ánh nhanh chóng qua lưỡi. Vì vậy, quan sát lưỡi cũng có thể chẩn đoán bệnh khá chính xác và độc đáo.
9.1.- Về hình thể
Lưỡi được phân chia như sau :
– Đầu lưỡi thuộc Tâm.
– Cuống lưỡi thuộc Thận.
– Giữa lưỡi thuộc Tỳ.
– 2 bên rìa lưỡi thuộc Can.
Thí dụ :
+ Thấy đầu lưỡi lở dộp, có thể nghĩ đến hỏa của tâm vượng.
+ Cuống lưỡi sưng, cuống lưỡi lở là dấu hiệu hỏa của thận vượng.
+ Giữa lưỡi xám đen là dấu hiệu thủy của Tỳ suy.
9.2.- Màu sắc và chất lưỡi
Xem lưỡi, thường tập trung vào chất lưỡi và rêu lưỡi.
a) Lưỡi bình thường :
– Chất lưỡi hồng nhạt do màng lưới các mạch máu vận chuyển trong lớp cơ và trong lớp dưới niêm mạc lưỡi làm cho lưỡi đỏ hồng.
– Rêu lưỡi trắng mỏng : do lớp nhú dạng chỉ với lớp thượng bì bị sừng hóa, thêm những vi khuẩn xen lẫn với thức ăn vụn nát, những mảnh tế bào bị hủy hoại và nước miếng do tuyến nước miếng tiết ra, tạo thành chất lưỡi trắng mỏng.
b) Các biến đổi :
b1.- Màu sắc :
– Trắng bệch : liên hệ đến hiện tượng thiếu máu, mao mạch máu bị co lại, huyết dịch giảm sút, dòng máu lưu thông kém, gây phù… Thường có liên hệ với hàn chứng, hư chứng, dương khí suy nhược, khí huyết không đủ.
– Xanh tím : liên hệ ứ máu tĩnh mạch hoặc thiếu oxy trong hồng cầu. Nếu do nhiệt, chất lưỡi xanh tím nhiều, lưỡi khô, ít tân dịch. Nếu do hàn, chất lưỡi xanh tím nhưng ướt tươi. Nếu ứ huyết thì có kèm theo các vết ban hoặc điểm ứ huyết.
– Đỏ : Thuộc nhiệt, do thực nhiệt hoặc hư nhiệt gây nên. Nếu đỏ tím là do nhiệt tà quá thịnh, đã vào phần dinh huyết và huyết, ở bệnh nhân mãn tính là do âm hư hỏa vượng, tân dịch bị giảm nhiều.
– Khô ráo : do nước miếng bài tiết ra bị giảm sút. YHHĐ cho là do hệ thần kinh giao cảm hoạt động mạnh hoặc do hoạt động của hệ Đối giao cảm yếu làm cho tình trạng tiết nước miếng bị giảm sút gây ra chất lưỡi khô ráo. YHCT cho là do nhiệt tà quá thịnh, đốt cháy làm khô tân dịch.
– Có vết nứt : do các nhú dạng chỉ của lưỡi chỗ thì dính, chỗ thì tách rời nhau, gây ra kẽ nứt. Cũng có khi do niêm mạc lưỡi co rút lại gây ra nứt. Thường gặp trong các chứng bệnh nhiệt thịnh đã vào phần lý, dinh, huyết.
b2.- Về hình dáng :
– Phù nề : thuộc Thực chứng, nhiệt chứng, nếu phù 2 bên thường do hư hàn hoặc do đàm thấp kết lại tràn lên.
– Sưng tụ : màu trắng nhạt : do Tỳ và Thận dương hư, chất lưỡi hồng đỏ, do thấp nhiệt bên trong, nhiệt độc mạnh.
b3.- Về cử động của lưỡi :
– Cứng không chuyển động được : do bệnh nhiệt, hôn mê, sốt cao làm tổn thương tân dịch, trúng phong.
– Lệch : do trúng phong.
– Run : do Tâm Tỳ khí huyết hư.
– Rụt ngắn : dấu hiệu bệnh nguy hiểm.
– Lưỡi thè ra ngoài : do Tâm Tỳ có nhiệt hoặc bệnh bẩm sinh phát dục kém ở trẻ em.
c) Xem rêu lưỡi :
– Màu sắc :
c1.- Rêu trắng : thuộc về hàn chứng và biểu chứng.
c2.- Rêu lưỡi vàng : thuộc nhiệt chứng, lý chứng. Do lưỡi bị viêm tại chỗ, phản ứng tiết dịch do có sự tác động của cầu khuẩn vàng xuất hiện ở lưỡi tạo nên.
c3.- Rêu lưỡi đen : thường là bệnh nặng. Nếu đen mà khô là do nhiệt thịnh làm tổn thương tân dịch. Do vi khuẩn sinh sôi nẩy nở làm sừng hóa tế bào. Thường gặp trong chứng sốt cao gây mất nước, bệnh viêm nhiễm lâu ngày dùng kháng sinh lâu ngày làm tối loạn chức năng tiêu hóa ở bao tử, ruột…
– Tính chất :
c4.- Rêu lưỡi dầy : Tà khí đã vào trong hoặc tích trệ ở trong. Đang bệnh, ăn uống kém hoặc chỉ uống chất lỏng khiến tác động cọ sát kém, hoặc do sốt cao mất nước, nước miếng tiết ra bị giảm sút.
c5.- Rêu lưỡi mỏng : hay gặp ở bệnh còn ở biểu, ngoại cảm. Rêu lưỡi từ mỏng biến sang dầy là bệnh nặng lên, từ biểu đi vào lý.
c6.- Rêu lưỡi ướt : biểu hiện tân dịch chưa bị tổn thương, rêu lưỡi ướt trơn là do thủy thấp ứ lại bên trong.
c7.- Rêu lưỡi khô : biểu hiện tân dịch bị hao tổn. Ngoài ra, nếu thấp tà tụ lại bên trong không sinh ra tân dịch cũng gây khô lưỡi.
9.3.- Biểu Hiện Lâm Sàng Giữa Lưỡi Và Bệnh
Theo tạp chí Medical News (Anh), số 30/1980, bác sĩ Tống Nam Đình, trường trung cấp y tế Thượng Hải I, qua quan sát kỹ lưỡng nhiều người bệnh đã đưa ra quan hệ giữa lưỡi và bệnh tật như sau :
– Chất lưỡi đỏ sẫm hoặc xanh tím, rêu lưỡi vàng dầy hoặc xám tro : bệnh nặng.
– Nơi người bị phỏng, diện tích phỏng càng rộng, mức phỏng càng rộng thì chất lưỡi chuyển sang đỏ hồng càng nhanh càng rõ… Phỏng mà kèm nhiễm khuẩn máu thì lưỡi đỏ sẫm và khô ráo.
– Chất lưỡi trắng bệch : gặp ở bệnh mãn tính, bệnh tiến triển chậm, kéo dài.
– Rêu lưỡi vàng : hay gặp ở bệnh nhiễm khuẩn máu do tụ cầu và liên cầu, do đó có thể chẩn đoán là chứng thực nhiệt (thổ vượng do hỏa vượng).
– Lưỡi sáng bóng, không rêu : bệnh nhiễm khuẩn do trực khuẩn mủ xanh.
– Lưỡi đỏ, sáng bóng : gặp ở giai đoạn cuối của Ung thư.
– Lưỡi đỏ sáng bóng lại thêm vết loét ở mặt lưỡi : nguy kịch sắp chết.
– Lưỡi âm hư (chất lưỡi đỏ sẫm, thân lưỡi hao sút, lưỡi khô có vết nứt, có trường hợp sáng bóng, có trường hợp 2 bên đầu lưỡi nổi gai đỏ, giai đoạn cuối của bệnh (thường sáng bóng như gương toàn lưỡi) : bệnh cảm nhiễm nặng, bệnh có khối u ác tính, cường tuyến giáp trạng (Bướu cổ lồi mắt), bệnh tổn thương ở gan, phổi.
– Ruột dư viêm cấp : rêu lưỡi nhờn. (Trên thực tế lâm sàng, có thể dựa dựa trên quan sát lưỡi để đánh giá mức phát triển của bệnh ruột dư viêm cấp) :
+ Qua điều trị, nếu rêu lưỡi dầy, nhờn chuyển sang trắng mỏng là triệu chứng tốt, bệnh thuyên giảm, chiều hướng thuận lợi.
+ Qua điều trị : dù các triệu chứng có lui bớt nhưng rêu lưỡi vẫn thấy
nhờn như cũ, không có gì thay đổi cả thường là bệnh không biến chuyển hoặc có khi bệnh bên trong đang trên đà phát triển.
– Gan viêm nặng : lưỡi đỏ sẫm, khô, ít ướt, rêu lưỡi dầy nhờn hoặc khô ráo, vàng hoặc đen. Viêm càng nặng, tiến triển càng xấu, càng thấy trạng thái lưỡi rõ ràng đậm nét hơn. Có trường hợp chỉ thấy lưỡi láng bóng, không rêu.
– Xơ gan : dù trước kia có chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng nhưng bỗng thấy chuyển sang màu đỏ sẫm mà sáng bóng thường là nặng.
– Ung thư gan : Rêu lưỡi có 2 vùng xanh, bầm tím.
– Bệnh nhồi máu cơ tim : lưỡi trở nên bầm tím từng phần, các tĩnh mạch dưới lưỡi biến đổi trạng thái dãn tĩnh mạch. Thường quan sát thấy lưỡi bị trắng, sau 4-5 ngày lớp màng trắng đó sít lại và trở nên đen.
– Ung thư thực quản : lưỡi trở nên bầm tím và 67% trường hợp do tế bào bị tróc ra nên dễ phát hiện được những thay đổi bệnh lý.
– Tiêu cầu thận viêm : trên lưỡi xuất hiện 1 lớp đen xám.
– Cũng theo tác giả, những bệnh thường làm lưỡi thay đổi là bệnh tim, bao tử viêm, loét, phổi viêm, bướu cổ, lồi mắt, đái tháo đường, ruột dư viêm cấp.
BẢNG TÓM TẮT VỀ CÁCH XEM LƯỠI (THIỆT CHẨN)
Trạng thái Chất lưỡi | Lưỡi, rêu lưỡi | Chứng bệnh tương ứng |
Trắng mỏng | Cảm phong hàn ở Biểu hoặc ở người khỏe | |
Trắng mỏng | Dương hư, khí huyết đều hư | |
Không rêu | Dương suy ở bệnh mãn, khí huyết suy | |
Trắng và mỏng kèm theo vết nứt | Khí huyết hư, Vị âm không đủ | |
Vàng và nhờn | Tỳ vị hư nhược, Thấp nhiệt ứ đọng | |
Xám tro và trơn | Dương hư gây nội hàn, Đàm thấp ứ đọng | |
Rêu trắng, đầu lưỡi hồng | Cảm phong nhiệt ở Biểu, Tâm hỏa vượng | |
Trắng và nhờn | Đàm ẩm, Thấp trọc, Tích trệ về ăn uống | |
Trắng và cáu bẩn | Đàm ẩm ứ đọng bên trong, Uế trọc trong vị sinh nhiệt | |
Trắng dầy như đắp phấn | Giai đoạn đầu của bệnh ôn dịch hoặc có ung nhọt bên trong | |
Vàng mà khô ráo | Bệnh lâu ngày, huyết ráo, khô tân dịch | |
Vàng mà nhờn | Thấp nhiệt ở trong, Đàm trọc ứ đọng bên trong gây ra nhiệt | |
Trắng | Nhiệt từ phần vệ chuyển vào phần khí | |
Vàng và mỏng | Nhiệt vượng ở phần khí | |
Vàng và nhờn | Thấp nhiệt ở phần khí | |
Vàng mà dầy và khô | Nhiệt tà xâm nhập sâu vào trong gây ra chứng Lý thực | |
Không có rêu | Phần khí và âm đều suy | |
Vàng sẫm | Nhiệt uất kết ở trong trường Vị | |
Đen và khô | Lý thực, cực nhiệt hại đến phần âm | |
Không có rêu | Nhiệt xâm nhập phần huyết, âm hư, hỏa vượng | |
Vàng mà ráo | Âm huyết khô ráo, hư hỏa nung nấu bên trong | |
Trắng mà nhuận | Khí huyết ngưng trệ, Nội hàn trầm trọng |
10. XEM MẶT (DIỆN CHẨN)
Mặt cũng là 1 trong số các vùng phản chiếu của cơ thể, do đó qua khuôn mặt cũng có thể phần nào đoán biết được bệnh tật ở các cơ quan tạng phủ tương ứng.
VÙNG PHẢN CHIẾU TRÊN MẶT | BỘ PHẬN CƠ QUAN TRONG CƠ THỂ |
Trán | Đầu não |
Lông mày | Cánh tay, vai |
Sơn căn | Cổ gáy |
Sống mũi | Cột sống |
2 bên sống mũi | Tuyến giáp, thận |
Mi mắt trên | Mắt, thận dương |
Mi mắt dưới | Thận âm |
Gò má | Tim, Nhũ hoa |
Má | Phổi, Gan, Bao Tử, Lách, Mật, Amidal |
Nếp nhăn 2 bên mũi (Pháp lệnh) | Hoành cách mô, Sườn |
Cánh mũi | Mông, Thần kinh tọa |
Nhân trung | Ruột già, Tử cung, Bộ sinh dục |
Bờ môi trên | Dịch hoàn, Buồng trứng, Đùi, Háng |
Bờ môi dưới (cằm) | Ruột non, Bọng đái, Bụng dưới, Cổ chân, Bàn chân |
Mép miệng | Nhượng chân, Đầu gối, Bắp chân |
2 bên cánh mũi đến giáp tai | Cánh tay |
Thí dụ : Thấy dùng hiệu báo bệnh xuất hiện ở vùng lông mày, có thể chẩn đoán cánh tay có trục trặc. Phía trên Nhân trung có dấu hiệu báo bệnh, là Ruột già hoặc bộ sinh dục có trục trặc…
11. XEM TAY CHÂN
Xem tay chân thường chú ý đến :
a) Hình dáng : Ngón tay dùi trống (dấu hiệu Hypocrate) thường gặp nơi người Xơ gan cổ trướng, bệnh Tim…
b) Màu sắc : nhất là ở các móng tay; màu xanh tím thường gặp nơi người suy hô hấp, suy tuần hoàn nặng…
c) Vân tay : Bình thường không thay đổi, tuy nhiên, có 1 vài sự cấu tạo đáng chú ý.
+ Theo các nhà nghiên cứu Liên Xô, nơi người bệnh loét hành tá tràng thường có sự thay đổi nơi vân tay ngón trỏ (ngón thứ 2).
+ Allan Park, dựa trên công trình nghiên cứu về di truyền học cho thấy :
– Dạng vân thắt nút (noeud) thường thấy nơi người bị bệnh tim bẩm sinh.
– Dạng xoáy ốc (volute) hay gặp nơi người có hội chứng Turner (vóc người bé, ngực bé, cổ tử cung hẹp).
– Dạng cánh cung (Arche) hay gặp ở người mắc hội chứng Kleinfelter (tinh hoàn kém phát triển, ngực có phần hơi đàn bà)…
12. CHỈ TAY Ở TRẺ EM
Chỉ tay ở đây là tĩnh mạch nhỏ tại ngón tay trỏ, chỗ giáp thịt đỏ trắng, gần gốc xương ngón tay trỏ, gọi là cách xem “Hổ khẩu” (vì có hình dáng giống miệng con cọp).
Xem hổ khẩu là xem xét hình dáng chỉ tay, tức hình tĩnh mạch nông (Vense digitalis palmares) ở dưới da ngón trỏ của bàn tay. Lớp da trẻ nhỏ còn non, mỏng, do đó tĩnh mạch nông dễ nổi và dễ nhận thấy. Dựa vào sự biến đổi vị trí, màu sắc và hình thái của các chỉ tay này, có thể chẩn đoán và tiên lượng bệnh của trẻ em.
Cách xem Hổ khẩu trẻ em : Để ngửa ngón tay trỏ lên, vuốt nhẹ vài lần từ gốc ngón tay trỏ lên xuống, sẽ thấy hiện ra chỉ tay của trẻ, chỗ giáp ranh thịt trắng đỏ của ngón tay trỏ.
Theo y học cổ truyền ngón tay trỏ được chia ra 3 phần : mỗi phần tương ứng với 1 đốt lóng ngón tay :
– Lóng cuối cùng, giáp bàn tay, gọi là Phong Quan.
– Lóng thứ 2, lóng giữa gọi là Khí Quan.
– Lóng trên cùng gọi là Mệnh Quan.
Cũng theo Y gia cổ xưa thì :
– Chỉ tay xuất hiện Phong Quan là bệnh nhẹ.
– Ở Khí quan là bệnh nặng.
– Ở Mệnh quan là bệnh nặng, trầm trọng và nguy hiểm đến tính mạng.
Y học hiện đại, với phương pháp dùng kính soi mao quản (Capillaroscopy) phát hiện được rất rõ màu sắc và hình thái các quai mao quản ở vùng chân móng tay. Bình thường các quai mao quản ở vùng chân móng tay có ít và đáy màu hồng, khi số lượng các quai mao quản tăng nhiều lên, tĩnh mạch dãn to ra, máu lưu thông kém, trở thành ứ đọng, đáy đổi thành màu xanh tím. Trong trường hợp tim suy kém quá, áp lực tĩnh mạch càng cao, các quai mao mạch càng nhiều, tĩnh mạch càng dãn rộng, đáy trở thành tím đen, 1 dấu hiệu thiếu oxy trầm trọng của cơ thể (hay gặp trong Suy tim giai đoạn 3).
Phương pháp xem Hổ khẩu của YHCT cũng gần giống phương pháp xem quai mao mạch của YHHĐ, nhất là trong trường hợp trẻ bị bệnh nặng.
Thường trẻ bị bệnh nặng, trong hội chứng suy tim và suy hô hấp đều có chỉ tay hiện rõ suốt 3 đốt ngón tay (lên đến Mệnh quan) và đều có màu xanh đen, tím tía là biểu hiện thiếu oxy trầm trọng trong máu. Nơi trẻ bệnh nặng, máu ở các tĩnh mạch nông bị trì trệ nên nhìn rất rõ.
Lưu ý :
a) Khi trẻ vừa được chữa khỏi bệnh (như đang ngạt được cho thở oxy nhân tạo), chỉ tay rút từ trên xuống dưới. Nhiều trẻ bệnh nguy kịch khó thở trầm trọng, chỉ tay đã lên đến Mệnh quan, nguy cơ đến tính mạng, khi được tích cực cứu chữa, vừa khỏi bệnh, chỉ tay từ Mệnh quan rút xuống Khí quan hoặc Phong quan. Như vậy dấu hiệu RÚT XUỐNG là dấu hiệu rất quan trọng trong việc theo dõi quá trình trị liệu.
b) Hiện tượng chỉ tay có dấu hiệu màu đen, xanh tím… dù đã lên đến Mệnh quan cũng không phải là dấu hiệu xấu, báo trước cái chết không thể tránh được như các y gia xưa quan niệm. Nên hiểu rằng đó là hiện tượng bệnh trầm trọng, cần chú ý theo dõi và điều trị tích cực. Nếu được điều trị tích cực và thích hợp, vẫn có khả năng cứu sống, nhất là đối với những phương tiện cấp cứu hiện đại.
c) Phân loại và ý nghĩa các loại dạng chỉ tay :
Theo “Báo Cáo Tiểu Nhi Chỉ Văn Đích Nghiên Cứu” đăng trong Trung y tạp chí số 6/1980 trang 43-47 và theo BS. Lê Nguyên Khánh, trong cuốn “Kết hợp YHCT với YHHĐ trong lâm sàng” Nxb Y học 1984, trang 251-252, chỉ tay của trẻ em được phân thành 6 loại :
1.- Loại chỉ tay nhỏ và ngắn, không chia nhánh, không uốn khúc, chỉ thấy ở Hổ khẩu và Phong quan.
2.- Loại chỉ tay chạy thẳng : không chia nhánh, không uốn khúc, chạy thẳng lên Khí quan hoặc Mệnh quan; gồm loại hình “Mũi kim treo” và “hình Giáo mác”
+ Hình Mũi kim treo : Thấy ở Khí quan biểu hiện Can nhiệt. Thấy ở Mệnh quan biểu hiện “Mạn Tỳ, tức Tỳ khí” suy sụp, dễ lâm vào tình trạng hiểm nghèo.
+ Chỉ tay Hình Giáo mác : biểu hiện “Đờm nhiệt” gây kinh phong, dễ phát sinh co giật .
3.- Loại chỉ tay Rõ nhánh Đơn giản : Chỉ mới rẽ thành 2 nhánh giống hình “xương cá” hoặc 2 “móc câu”.
+ Hình Xương cá : ở Phong quan là dấu hiệu kinh phong. ở Khí quan là dấu hiệu hư lao.
+ Hình 2 Móc câu : biểu hiện Tỳ hư, khí trệ, bị tích trệ do ăn phải đồ ăn sống lạnh.
4.- Loại chỉ tay rẽ thành nhiều nhánh : rẽ quá 2 nhánh trở lên, gồm chỉ tay hình chữ Thủy hoặc chữ Song.
+ Hình chữ Thủy : thấy ở Phong quan, dấu hiệu kinh phong, đờm ngăn ở ngực, tích tụ.
+ Hình chữ Song : biểu hiện bị trướng tích do ăn nhằm đồ độc, dễ gây kinh phong.
5.- Chỉ tay uốn khúc : uốn khúc nhiều hay ít, to hay nhỏ, có quy luật hoặc không có quy luật, bao gồm các hình : “Trùng rối loạn” và ” Rắn bò đến”.
– Chỉ tay hình trùng rối loạn : dấu hiệu bệnh Cam tích, giun sán.
– Chỉ tay hình rắn bò đến : biểu hiện tạng phủ có tích trệ về khí, dễ sinh oẹ khan.
6.- Loại chỉ tay giáp vòng : rẽ nhiều nhánh và uốn khúc mạnh thành khép vòng. Gồm các loại hình : “Hạt Châu Trôi” và hình “Vòng quanh”.
+ Chỉ tay hình Hạt châu trôi : chỉ tay như chấm độ, biểu hiện Tam tiêu nóng làm cho trẻ bứt rứt, kêu khóc.
+ Chỉ tay hình vòng quanh :
Thấy ở Phong quan là chứng Cam tích.
Thấy ở Khí quan là sẽ nôn mửa nhiều.
Thường thường, chỉ tay của trẻ khỏe mạnh, không thấy rõ, nếu có thấy chỉ thấy ở gần hổ khẩu hoặc ở Phong quan thôi, tuy nhiên, chỉ thường nhỏ ngắn và không uốn khúc 1 cách rõ ràng, nếu có rẽ nhánh cũng chỉ rẽ nhánh đơn giản thành 2 nhánh mà thôi… Ở trẻ nhỏ, nếu chỉ tay thấy rõ, dù bất cứ ở hình thức nào thường là trẻ đang bệnh.
Chỉ tay rẽ nhánh hoặc uốn khúc hay gặp trong trường hợp trúng độc
nghiêm trọng, đặc biệt có dấu hiệu rối loạn chức năng thần kinh hoặc hô hấp. Trẻ lên cơn động kinh hoặc co giật thường thấy chỉ tay uốn khúc. Trẻ bị sốt cao, chỉ tay xuất hiện càng rõ. Sốt càng cao, hình chỉ tay càng rẽ nhiều nhánh hoặc càng uốn khúc nhiều.
Có thể tạm nhận rằng yếu tố chính tạo nên hình thái chỉ tay ở trẻ nhỏ là do có sự rối loạn Trung tâm điều hòa thân nhiệt hoặc do có biến đổi trạng thái sinh lý, bệnh lý của các hệ tuần hoàn, hô hấp và dinh dưỡng gây nên.
XEM Ở CHÂN
Theo các nhà nghiên cứu, chân cũng là 1 bộ phận phản chiếu của cơ thể, nhất là lòng bàn chân. Theo BS, Cerney, Carter và Ingham cơ thể con người được biểu hiện và phản chiếu toàn bộ trong lòng bàn chân. Đầu ở ngón chân cái, tạng phủ chủ yếu ở lòng giữa bàn chân… (Về chi tiết, xin xem thêm ở tập Túc châm)… do đó, có thể dựa vào những thay đổi về hình thái, cường độ, điện trở… ở lòng bàn chân để có thể biết được trạng thái bệnh lý ở cơ quan tạng phủ tương ứng.
– Các nhà nghiên cứu Mỹ cho biết : Những người mắc bệnh đái tháo đường thường có vân hình tròn ở ngón chân thứ 2 và hình tam giác ở dưới bụng ngón chân cái…
Tóm lại : phạm vi của vọng chẩn rất lớn, tuy nhiên trên lâm sàng, không nhất thiết phải áp dụng cùng lúc tất cả mọi phương pháp vừa đề ra nhưng nếu điều kiện có thể được, nên phối hợp vài phương pháp khác nhau để việc chẩn đoán mang lại hiệu quả và chính xác hơn.
VĂN (NGHE – NGỬI)
Nội dung của Văn chẩn (nghe) là để ý đến những tính chất của các âm thanh tiếng thở, tiếng ho, tiếng rên, ngửi mùi bốc ra từ người bệnh…
a) Tiếng nói :
– Tiếng nói nhỏ, hụt hơi, không đủ sức… là dấu hiệu của hư chứng.
– Tiếng nói to, vang, mạnh… là dấu hiệu thực chứng.
– Nói ngọng, khó nói, hay gặp trong chứng trúng phong.
– Hay nói, nói 1 mình là dấu hiệu tâm và thận hư.
b) Tiếng thở :
– Thở nhanh, thở mạnh… là dấu hiệu thực chứng.
– Thở nông, yếu là dấu hiệu hư chứng.
c) Tiếng ho :
– Ho có đờm là Thấu, ho không đờm là Khái, ho khan là bệnh nội thương…
– Ho kèm theo hắt hơi, sổ mũi… thường là do cảm phong hàn.
– Ho từng cơn, có tiếng rít… là ho gà.
d) Tiếng nấc :
– Nấc liên tục, tiếng to là thực nhiệt.
– Nấc thưa, tiếng nhỏ là hư hàn.
– Nơi người bệnh nặng, nếu nấc thường là bệnh nặng.
e) Ngửi mùi vị :
Cần theo dõi mùi buồng bệnh, giường bệnh, quần áo, da dẻ, hơi thở, các chất thải (Đờm, nước tiểu, phân…).
– Phân tanh hôi, loãng do Tỳ hư.
– Nước tiểu khai, đục do thấp nhiệt.
– Đờm tanh hôi, màu vàng xanh hoặc đục là dấu hiệu Phế ung (áp xe phổi).
– BS. Leisy Miser cho rằng : “Bằng khứu giác của mình, tôi có thể phát hiện ra được người mắc bệnh đái đường đứng cách tôi 10 bước”. Ông đã tổng kết và đưa ra 1 bảng liệt kê hướng dẫn mùi vị của các loại bệnh.
+ Da của người mắc bệnh Thương hàn có mùi vị của bánh mì nướng, mùi của bệnh hoại thư…
Ông cho rằng bệnh đái đường và bệnh gan hoàn toàn có thể căn cứ vào hô hấp để phán đoán…
VẤN (HỎI)
Hỏi người bệnh hoặc thân nhân người bệnh là 1 yếu tố hết sức quan trọng để cung cấp thêm cho thầy thuốc những chi tiết không thể biết được về tiền sử bệnh, diễn tiến bệnh từ lúc khởi bệnh đến lúc thăm khám. Hỏi sẽ giúp thầy thuốc bổ sung những khái niệm đã có, làm sáng tỏ những nghi ngờ đã có khi nhìn và nghe.
Những vấn đề cần hỏi :
– Quê quán và chỗ ở lâu nhất của người bệnh (để ý đến chi tiết địa lý và phong thổ gây bệnh).
– Sinh hoạt, tập quán, nghề nghiệp.
– Tinh thần và hoàn cảnh sống.
– Tiền sử bệnh (trước đây đã mắc bệnh gì…).
– Diễn tiến của bệnh từ lúc phát đến khi đến khám.
Đi vào chi tiết cần hỏi :
a) Thân nhiệt :
Có sợ lạnh, phát sốt, gai rét gì không ?
+ Sợ lạnh :
– Mới mắc mà sợ lạnh thường là do cảm phong hàn.
– Bệnh lâu ngày, sợ lạnh, tay chân lạnh là dấu hiệu dương hư.
+ Phát sốt :
– Phát sốt có quy luật hoặc sốt càng ngày càng tăng gọi là Triều nhiệt.
– Nóng nhức trong xương gọi là “Cốt chưng lao nhiệt”
– Lòng bàn tay chân nóng, gò má đỏ là sốt do âm hư.
– Sốt gai rét thường do ngoại cảm.
– Lúc sốt lúc rét (sốt rét có cữ nhất định) là chứng bán biểu bán lý thuộc thiếu dương chứng, sốt rét…
+ Mồ hôi :
– Sợ lạnh, phát sốt có mồ hôi là biểu thực, không có mồ hôi là biểu hư.
– Sốt cao, ra mồ hôi nhiều là lý nhiệt.
– Ngủ thì đổ mồ hôi (mồ hôi trộm – Đạo hãn) thường do âm hư.
– Lúc nào cũng ra mồ hôi (tự hãn), sau khi ra mồ hôi thấy lạnh là dương hư khí hư.
– Toàn thân ra mồ hôi nhiều mà chân tay lạnh là dấu hiệu thoát dương (vong dương), trụy mạch.
b- Đau :
– Đau vùng đỉnh đầu lan xuống gáy hoặc nửa bên đầu, liên hệ đến kinh Thái dương và Thiếu dương…
– Ngực sườn đau, đầy tức, mắt đau, liên hệ đến Can và kinh Thiếu dương.
– Vùng thượng vị đau, liên hệ đến Tỳ, bao tử đau…
Tùy vùng đau tương ứng với tạng phủ nào mà suy ra bệnh ở tạng phủ đó.
– Bệnh mới, đau nhiều, ấn vào đau thêm, thuộc Thực chứng.
– Bệnh lâu, đau ê ẩm, ấn vào đỡ đau, thuộc hư chứng.
– Đau dữ dội 1 nơi là do huyết ứ …
c- Ăn uống :
– Miệng khát, thích uống nước là thực nhiệt, khát nhưng không thích uống nước là hư hàn, thấp.
– Bệnh mới, không thèm ăn là do tích trệ. Bệnh cũ lâu ngày mà biếng ăn là do Tỳ vị suy kém.
– Ăn nhiều mau đói là Hỏa của Vị mạnh. Đói mà không muốn ăn là Vị âm hư.
– Miệng đắng là Hỏa của Vị mạnh, thuộc nhiệt, miệng hôi là do hỏa của vị đốt bên trong, miệng nhạt là do đàm trọc…
d- Ngủ :
– Mất ngủ, hồi hộp, ngủ hay mê là do tâm huyết không đủ.
– Ngủ hay vật vã, trằn trọc lâu không ngủ là do âm hư hỏa vượng.
e- Đại tiểu tiện :
– Đại tiện táo, khó, thường do thực nhiệt hoặc do khí hư, âm hư, huyết hư (hay gặp nơi người phụ nữ mới sinh).
– Đại tiện lỏng :
+ Phân đặc mùi thối : lý nhiệt tích trệ.
+ Phân loãng, ít thối do Tỳ vị hư hàn.
+ Tiêu chảy lúc sáng sớm (ngũ canh tiết tả) do thận hư.
– Nước tiểu ít, nước tiểu màu vàng, nước tiểu màu đỏ do thực nhiệt, tiểu nhiều, tiểu trong và dài, do hư hàn, tiểu luôn, tiểu gắt, tiểu đau là do thấp nhiệt…
f- Kinh nguyệt – Khí hư (Huyết Trắng) :
– Kinh trước kỳ, màu kinh đỏ tươi, số lượng nhiều, do huyết nhiệt, sắc lợt, lượng ít, bụng đau sau khi hành kinh thường do khí huyết thiếu.
– Kinh sau kỳ, sắc thẫm, có cục, bụng đau trước khi hành kinh, do ứ huyết, hàn hoặc do huyết hư.
– Rong kinh, rong huyết, sắc tím đen, thành khối, do can thận hư hoặc Tỳ hư.
– Khí hư lượng nhiều, loãng,do Tỳ thận hư hàn, khí hư nhiều, màu vàng hôi, ngứa do thấp nhiệt.
THIẾT
Thiết là cắt mổ xẻ để phân tích. Đây là khâu cuối cùng trong tứ chẩn, nhằm tập hợp đầy đủ các triệu chứng, giúp cho việc chẩn đoán bệnh được toàn diện. Gồm có 2 phần : sờ nắn (Án chẩn) và xem mạch (Mạch chẩn).
I.- SỜ NẮN (Án chẩn, Xúc chẩn)
Sờ nắn để tìm xem vị trí và tính chất của bệnh, thường xem tại da, thịt, tay chân và bụng.
1.- Xem da thịt
Hàn nhiệt.
+ Sờ vào nóng ngay, càng lâu càng nóng là thực chứng, biểu nhiệt.
+ Sờ vào nóng, ấn sâu vào mát : trong hư ngoài thực.
+ Lòng bàn tay nóng, cảm thấy da nóng bừng nhưng không sốt, do hư nhiệt.
+ Da khô táo : Tân dịch giảm, ứ huyết.
+ Phù : ấn mạnh vết lõm còn là thủy thũng, vết lõm nổi đầy ngay là khí thũng.
– Da thuộc phế (phế chủ bì mao) do đó nếu lỗ chân lông thưa, hở dễ bị ngoại cảm.
– Mô, cơ nhục, thuộc tỳ (tỳ chủ cơ nhục).
+ Da thịt săn chắc, vừa phải là khí huyết sung mãn.
+ Da thịt nhão là là tỳ vị hư hàn.
+ Da thịt quá dầy là hay bị chứng thấp (do tỳ vị tích nhiệt : Thấp nhiệt).
– Gân cơ do can đởm phụ trách (can chủ cân), gân cơ cứng, căng chắc như dây đàn do tà khí xâm nhập vào huyết mạch gây ứ huyết.
– Thận chủ xương, xem độ cứng mềm của xương để biết chức năng của thận.
– Ấn tìm cảm giác đau :
+ Ấn mạnh vào đau tăng là thực chứng.
+ Ấn mạnh vào đau giảm là hư chứng.
– Đau chói là thực chứng hoặc ứ huyết.
– Đau ê ẩm do hư chứng hoặc hư hàn.
2.- Sờ tay chân :
– Tay chân lạnh, sợ lạnh là dương hư.
– Tay chân nóng là nhiệt thịnh.
– Nóng ở mu bàn tay là Biểu nhiệt, ngoại cảm. Nóng trong lòng bàn tay là nội thương.
3.- Xem bụng (Phúc Chẩn)
Tùy vị trí liên hệ với tạng phủ để dễ chẩn đoán.
Bụng là 1 phần cơ thể chứa đựng nhiều cơ quan phức tạp. Muốn chẩn đoán, cần biết qua vị trí các cơ quan trong bụng :
– Phần trên bụng, phía tay phải có gan, ống dẫn mật, túi mật.
– Phần trên bụng, phía tay trái có lách, bao tử, tụy tạng, kết tràng ngang.
– Phần dưới bụng, phía tay trái là ruột già, trực tràng.
– Phần bụng dưới của phụ nữ là tử cung, buồng trứng, dây chằng, bộ phận sinh dục.
– Phần dưới bụng : bọng đái, thận.
– Khi chẩn đoán cần lưu ý :
– Thích án (xoa bóp) thuộc hư, không thích xoa bóp (cự án) thuộc thực.
– Bụng có khối, rắn, đau, không di chuyển thường là khối giun, ứ huyết.
– Lúc có lúc tan, ấn vào không thấy hình thể, không ở 1 nơi nhất định thường do khí trệ.
– Trong việc châm cứu, việc thăm khám bằng cách sờ nắn rất quan trọng đặc biệt trong việc tìm các A thị huyệt hoặc các huyệt chẩn đoán để từ đó chẩn đoán được các đường kinh bệnh và chọn huyệt châm cứu có kết quả.
XEM MẠCH (Mạch chẩn)
Đại Cương
– Xem mạch để biết được tình trạng thịnh suy của các tạng phủ, vị trí nông sâu, tính chất hàn nhiệt của bệnh.
– Mạch là 1 thực thể của âm dương là gợn sóng của khí huyết.
– Muốn chẩn mạch, phải dùng trực giác và lý trí phối hợp để nhận định thể và trạng của mạch.
– Thể và trạng của mạch gồm :
a) Vị trí : nông sâu
b) Cường độ : mạnh yếu.
c) Tốc độ : Nhanh chậm.
d) Nhịp độ : đều và không đều.
e) Thể tích : lớn nhỏ.
f) Hình thái : tròn dẹp.
2.- Nơi Xem Mạch
Tại động mạch quay ở tay, động mạch ở đùi, động mạch chày sau, động mạch mu chân, động mạch Thái dương nhưng vị trí thường dùng nhất là động mạch tay quay, ở Thốn khẩu.
Mạch được chia làm 3 bộ : Thốn – Quan – Xích.
Độ dài từ ngấn khớp cánh tay đến bộ “Quan” là 1 Xích tức là 1 thước ta.
Độ dài từ bộ “Quan” đến ngấn ngoài cổ tay là 1 Thốn, tức 1 tấc ta.
Bộ Quan tương đương với mỏm chẩm xương trụ kéo ngang, bộ Thốn ở trên và bộ Xích ở dưới bộ Quan.
Mạch được chia ra như sau :
BỘ MẠCH | TAY TRÁI (HUYẾT) | TAY PHẢI (KHÍ) |
THỐN | Tâm – Tiểu trường | Phế – Đại trường |
QUAN | Can – Đởm | Tỳ – Vị |
XÍCH | Thận âm – Bàng quang | Thận dương (Mệnh môn) – Tam tiêu |
Cách Xem Mạch
Để người bệnh nằm hoặc ngồi ở tư thế thoải mái, người bệnh để ngửa cổ tay và bàn tay, thầy thuốc dùng 3 ngón tay đặt vào 3 bộ vị : Thốn, Quan, Xích. Đầu ngón tay giữa đặt lên trên động mạch tay quay ở cổ tay người bệnh, tại vị trí phía trong lồi xương quay, đó là bộ Quan, đặt tiếp lên động mạch quay 2 đầu ngón tay kề ngay bên ngón giữa. 1 đầu ngón tay tại vị trí ở ngay trên bộ Quan nhìn về phía lòng bàn tay gọi là bộ Thốn, ngón tay khác đặt tại vị trí ở bên dưới bộ Quan, nhìn về phía khuỷ tay, gọi là bộ Xích.
Ở trẻ nhỏ dưới 7-8 tuổi, chỉ cần dùng 1 ngón tay, đè lên động mạch của 3 bộ mạch rồi lăn qua, lăn lại để xem mạch cũng được.
Tay phải của thầy thuốc thì xem tay trái người bệnh và ngược lại, tay trái thầy thuốc xem tay phải người bệnh.
Tùy theo hình thể người bệnh mà đặt các ngón tay vào các bộ vị cho thích hợp : người cao, béo đặt các ngón tay khít vào nhau. Nơi người ốm, lùn, các ngón tay thầy thuốc đặt thưa.
Sau đó, ấn nhẹ, ấn trung bình hoặc ấn mạnh để tìm hiểu sự rối loạn bệnh lý, biểu hiện qua mạch mà chẩn đoán.
Người bệnh nên nghỉ ngơi 10-15 phút trước khi xem mạch, nằm hay ngồi thoải mái, xem mạch vào buổi sáng sớm, lúc mạch chưa bị thay đổi thì tốt nhất, tuy nhiên không nên câu nệ, tiện lúc nào, xem lúc đó cũng được.
Xem mạch có 2 loại : xem chung cả 3 bộ (tổng khám), để nhận định tình hình chung (thường được dùng nhất) và xem riêng từng bộ phận (đơn khám) để đánh giá riêng từng cơ quan tạng phủ).
Xem Mạch Nam Tả Nữ Hữu
Theo cách phân chia âm, dương, bên trái, người nam thuộc dương, bên phải người nữ, thuộc âm. Vì thế nam nên xem bên trái trước còn nữ nên xem bên phải trước và trái sau.
Xem mạch người nam, tay trái, mạch ở tay phải mạnh hơn trái là dương nhiều hơn âm, là thuận. Ngược lại, tay phải mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương, không thuận tức là người nam đó bị dương suy âm thịnh
Xem mạch người nữ, tay phải mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương, là thuận. Ngược lại, tay trái mạnh hơn tay phải là dương nhiều hơn âm, không thuận, tức là người nữ đó bị âm suy, dương thịnh.
Như vậy, việc xem Nam tả Nữ hữu, chủ yếu chỉ để xem âm dương thuận hay nghịch đối với người đó, chứ không nhất thiết phải theo đúng quy củ, mà tiện như thế nào, thì xem thế ấy.
Điều chủ yếu trong câu “Nam tả Nữ hữu” là chú ý vào 2 bộ Xích của cả Nam lẫn Nữ.
– “Nam dĩ tả xích nhị tàng tinh hoặc Nam dĩ tả xích vi tinh phủ” (Nam tàng trữ tinh khí ở bộ Xích tay trái). Xem mạch người nam, nếu bộ Xích tay trái hòa hoãn, có lực thì biết người ấy tinh khí dư dật, khỏe mạnh. Nếu bộ xích tay trái Trầm, Vi, vô lực thì không khỏe.
– “Nữ dĩ hữu xích nhi hộ bào hoặc nữ dĩ hữu xích vi huyết hải” (Nữ buộc dây bào thai và chứa huyết ở bộ xích tay phải). Xem mạch người nữ, nếu bộ xích tay phải hòa hoãn, có lực thì biết tử cung và huyết của họ tốt. Nếu bộ xích tay phải Trầm, Vi, vô lực thì không khỏe.
5.- Mạch và Ngũ hành
Dùng Ngũ Hành áp dụng vào mạch ta có :
Bên trái : Thận Thủy (Bộ Xích) sinh Can Mộc (Quan), Can Mộc sinh Tâm Hỏa (Thốn).
Bên phải : Mệnh Môn (Thận dương – bộ Xích) sinh Tỳ Thổ (Quan), Tỳ Thổ sinh Phế Kim (Thốn).
Mạch Và Khí Huyết
Xét về khí huyết với Mạch ta có :
Bên trái thuộc huyết : Thận, Can và Tâm. Thận sinh huyết. Tỳ thống huyết và Tâm chủ huyết như thế, bên trái liên hệ với huyết.
Bên phải gồm Phế, Tỳ, Mệnh môn, Tam tiêu, Phế chủ khí, Tỳ là Trung khí Tam tiêu là đường dẫn đến Nguyên khí, do đó bên phải liên hệ với khí.
Mạch Và Tạng Phủ
Mỗi tạng phủ đều có 1 mạch riêng, theo đặc tính mà tạng phủ đó biểu lộ
– Tạng Tâm chủ Hỏa, Hỏa thường bùng lên như ngọn lửa bùng lên, vì thế mạch của Tâm là mạch Hồng.
– Tạng Can : tính của Can là cang cường, thẳng, giống như dây đàn, dây cung căng cứng, vì thế mạch của Can là mạch Huyền.
– Tạng Tỳ, là trung tâm, là nơi vận chuyển điều hòa cho cơ thể, vì thế, mạch của Tỳ là mạch Hoãn.
– Tạng Phế : Phế chủ sự buồn phiền, buồn phiền thì ngừng trệ lại, do đó, mạch của Phế là mạch Sáp.
– Tạng Thận : Thận chủ xương, Thận có vị mặn, đi xuống, do đó, mạch của Thận là mạch Trầm.
Mạch Và Mùa
Mỗi 1 mùa ứng với 1 tạng nhất định dù mùa đó chi phối toàn thể các mạch khác trong suốt mùa đó.
Mùa Xuân : Cây cối xanh tốt, ứng với màu của Can do đó có mạch Huyền.
Mùa Hè : Cây cối lớn lên, sức nóng của mùa hè bùng lên, thiêu đốt vạn vật như lửa bùng lên, do đó mạch của mùa Hè là mạch Hồng.
Mùa Thu : Mọi vật bắt đầu thu lại, lá cây khô đi và rơi rụng giống như lông, do đó mạch của mùa Thu là mạch Mao.
Mùa Đông : Mọi vật thu giữ lại, tàng trữ tất cả những khả năng mạnh mẽ của m1h để sống qua cái lạnh, vì thế mạch của mùa Đông là mạch Thạch.
Tứ qúy : Tứ qúy là chuyển tiếp giữa các mùa,do đó thường mang đặc tính ôn hòa, vì thế, mạch của Tứ qúy là mạch Hoãn.
Từ những tương ứng của mạch đối với mùa, có thể suy rộng ra :
– Mộc sinh Hỏa, Hỏa thuộc tạng Tâm, chính ra mạch của Tâm là mạch Hồng, nay bắt thấy mạch Tâm là Huyền thì có thể suy đoán bệnh tuy ở Tâm nhưng do Mộc sinh nên tức là do Phong gây nên, bệnh ở tạng Mẹ truyền sang.
– Thủy khắc Hỏa, bệnh ở Tâm, bắt được mạch Trầm của Thận, là Thủy khắc Hỏa, bệnh nặng hơn…
Mạch Và Nguyên Nhân Gây Bệnh
a) Nguyên nhân ngoài :
Hàn thương Thận vì vậy có mạch Khẩn.
Thử thương Tâm vì vậy có mạch Hư.
Táo thương Phế vì vậy có mạch Sáp.
Thấp thương Tỳ vì vậy có mạch Nhu.
Phong thương Can vì vậy có mạch Phù.
Nhiệt thương Tâm vì vậy có mạch Nhược.
b) Nguyên nhân trong (Thất tình) :
Hỷ thương Tâm gây nên mạch Hư.
Tư thương Tỳ gây nên mạch Kết.
Ưu thương Phế gây nên mạch Sáp.
Nộ thương Can gây nên mạch Nhu.
Khủng thương Thận gây nên mạch Trầm.
Kinh thương Đởm gây nên mạch Động.
Bi thương Bào lạc gây nên mạch Khẩn.
Mạch Thai
Giai đoạn thai mới thành hình, rất khó biểu hiện nơi mạch, nhưng từ 3 tháng trở lên mạch thai biểu hiện rất rõ, có thể căn cứ trên mạch để không những đoán biết tuổi thai mà còn biết được thai tượng hình trai hay gái. Đây là 1 điểm khá độc đáo của ngành YHCT.
Thai 3 tháng, thường chú trọng vào 2 bộ mạch ở Tâm và Thận tức Tả Thốn và Tả Xích. Tâm chủ huyết, Thận chủ bào thai, bào thai sống được là nhờ tinh huyết nuôi dưỡng, do đó cần để ý đến 2 tạng này.
Khi có thai, thường mạch ở 2 tạng này nhảy mạnh hơn các mạch ở tạng khác, Thận và Tâm là Tạng, lại cùng thuộc kinh Thiếu âm, do đó liên hệ đến huyết. Mạch đập mạnh là biểu hiện của dương. Như vậy mạch 2 bộ Tâm và Thận đập mạnh là dấu hiệu huyết vượng. Bào thai sống nhờ huyết nên huyết vượng là dấu có thai.
CÁC LOẠI MẠCH
Hiện nay, trên thế giới, các nhà nghiên cứu Y học hiện đại, trong tinh thần nghiên cứu kết hợp YHCT và YHHĐ, đã cố gắng tìm hiểu mạch qua các phương pháp diễn tả mạch hiện đại. Trong tài liệu này, chúng tôi xin giới thiệu 1 số công trình nghiên cứu đó, để giúp làm sáng tỏ vấn đề về mạch là 1 trong số những vấn đề gây nhiều hiểu lầm nhất trong giới thầy thuốc.
Dụng cụ biểu diễn mạch là máy Điện Tâm cơ Thanh (Electro Cardiopho Mecanograph). Xin xem thêm trong “Trung Y Biện Chứng Luận Trị” của Ban cải cách giáo dục học viện Trung Y Quảng Đông, 1976 và “Kết hợp YHCT và YHHĐ trong lâm sàng” của BS. Lê Nguyên Khánh, Nxb Y học 1982.
1.- MẠCH BÌNH THƯỜNG
Là mạch có đập ở 2 bộ, không Phù không Trầm. Theo YHCT, mạch bình thường trung bình 4-5 lần đếm trong 1 hơi thở, tiếng chuyên môn gọi là “Tức”, 1 Tức có 4-5 chí, được tính như sau : Hít 1 hơi vào (thở vào) rồi từ từ thở ra,, vừa thở ra vừa đếm 1, 2, 3… Đếm đến đâu mà hết thở thì được coi là 1 Tức.
Theo YHHĐ, tương đương với 70-80 lần đập trong 1 phút, nơi người lớn. Nơi trẻ em, mạch thường đập nhanh hơn 120-140/ phút.
Dưới đây chúng tôi giới thiệu các loại mạch thường dùng trong YHCT.
MẠCH CÁCH
Hình Tượng Mạch CÁCH
Sách ?Trung Y Học Khái Luận? ghi: “Mạch Cách… lớn mà Huyền, Cấp, đặt nhẹ tay thấy ngay, ấn xuống thì không thấy, như ấn tay vào da trống, ngoài căng trong rỗng”.
Sách ?Mạch Chẩn? ghi lại hình vẽ biểu thị mạch Cách:
Mạch CÁCH Chủ Bệnh
Sách ?Mạch Học Giảng Nghĩa? ghi: “Mạch cách chủ biểu hàn, trung hư, xẩy thai, lậu hạ, đàn ông thì mất tinh, huyết “.
Tả Thốn CÁCH Tâm hư, đau. | Hữu Thốn CÁCH Phế hư, khí ủng trệ. |
Tả Quan CÁCH Sán Hà. | Hữu Quan CÁCH Tỳ hư, dạ dầy đau. |
Tả Xích CÁCH Di tinh. | Hữu Xích CÁCH Xẩy thai, lậu hạ. |
MẠCH ĐẠI
Hình Tượng Mạch ĐẠI
Sách ?Trung Y Chẩn Đoán Học? ghi :”Mạch Đại, rộng và to khác thường, chỉ không cuồn cuộn như mạch Hồng mà thôi”.
– Sách ?Mạch Chẩn? biểu diễn hình vẽ mạch Đại:
( So sánh với mạch VI)
Mạch ĐẠI Chủ Bệnh
Sách ?Mạch Học Giảng Nghĩa? ghi: “Mạch Đại chủ tà nhiệt cảm nặng, thấp nhiệt, tích khí, ho suyễn, trường tiết, khí đưa nghịch lên làm mặt bị phù, hư lao nội thương”.
Tả Thốn ĐẠI Tâm phiền, phong nhiệt, kinh sợ. | Hữu Thốn ĐẠI Khí nghịch, mặt phù, ho suyễn. |
Tả Quan ĐẠI Sán khí, phong huyễn. | Hữu Quan ĐẠI Tích khí, vị thực, bụng đầy. |
Tả Xích ĐẠI Thận tý. | Hữu Xích ĐẠI Tiểu đỏ, đại tiện khó. |
MẠCH ĐỢI
Hình Tượng Mạch ĐỢI
Sách ?Mạch Học Giảng Nghĩa? ghi: “Đại có nghĩa là thay đổi, mạch bình thường mà bất thình lình thấy Nhuyễn, Nhược hoặc lúc Sác lúc sơ, đều gọi là mạch Đại ( Đợi )”.Sách ?Mạch Chẩn? biểu thị hình vẽ mạch Đại:
Mạch ĐỢI Chủ Bệnh
Sách ?Mạch Học Giảng Nghĩa? ghi: “Mạch Đợi chủ tạng khí suy yếu, Tỳ hư hàn không ăn được, nôn mửa, tiêu chảy, bụng đau”.
Tả Thốn ĐỢI Hồi hộp. | Hữu Thốn ĐỢI Khí suy. |
Tả Quan ĐỢI Liên sườn đau dữ dội. | Hữu Quan ĐỢI Tỳ suy, bụng trướng. |
Tả Xích ĐỢI Chân lạnh. | Hữu Xích ĐỢI Dương tuyệt. |
MẠCH ĐOẢN
Hình Tượng Mạch ĐOẢN
Sách ?Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa? ghi: “Mạch Đoản, đầu đuôi đều ngắn, không cùng bộ vị”.
Sách ?Mạch Chẩn?(M.Kinh) biểu diễn hình vẽ mạch Đoản như sau:
Mạch ĐOẢN Chủ Bệnh
Sách ?Mạch Học Giảng Nghĩa? ghi: “Mạch Đoản chủ hơi thở ngắn, huyết hư, phế hư, ăn không tiêu, mồ hôi ra nhiều, dương khí bị vong”.
-148-
Hữu Thốn ĐOẢN Phế hư, đầu đau. | Tả Thốn ĐOẢN Tâm thần, bất túc. |
Hữu Quan ĐOẢN Vị quản đầy, tức, không thông. | Tả Quan ĐOẢN Phế khí, tổn thương. |
Hữu Xích ĐOẢN Chân dương suy yếu. | Tả Xích ĐOẢN Bụng dưới đau. |
MẠCH HOÃN
Hình Tượng Mạch HOÃN
Sách ?Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa? ghi: “Mạch Hoãn, 1 hơi thở 4 chí, đi lại khoan thai”.
Sách ?Mạch Chẩn? ghi hình vẽ mạch Hoãn như sau:
Mạch HOÃN Chủ Bệnh
Sách ?Mạch Học Giảng Nghĩa? ghi: “Mạch Hoãn chủ về phong thấp, trúng phong, đau nhức, hoa mắt, chóng mặt, hư nhức, ung nhọt, tiểu khó”.
Tả Thốn HOÃN Tâm khí không đủ. | Hữu Thốn HOÃN Thương phong. |
Tả Quan HOÃN Can hư. | Hữu Quan HOÃN Tỳ thấp. |
Tả Xích HOÃN Âm hư. | Hữu Xích HOÃN Dương suy. |
MẠCH HOẠT
Hình Tượng Mạch HOẠT
Hoạt là trơn tru, như những hạt đậu lăn dưới tay.
Sách ?Mạch Chẩn? ghi lại hình vẽ biểu diễn mạch Hoạt như sau:
– Sách ?KHYHCT và YHHĐ Trong Lâm Sàng? mô tả hình vẽ biểu diễn của mạch Hoạ
BẢNG PHÂN LOẠI MẠCH (Theo 6 Tính chất của Mạch YHCT)
Hình thức | Tính chất | Loại mạch | Ý nghĩa | Cách phân biệt |
1.- Về vị trí nông sâu | Sóng mạch nổi lên hoặc chìm | Phù Trầm | Để phân biệt bệnh ở Biểu hoặc ở Lý | Phân biệt bằng cách ấn khẽ, vừa, mạnh mới thấy |
2.- Về cường độ đập | Xem chấn động của mạch mạnh hoặc yếu | Hư Thực | Để nhận ra sự thịnh suy của Tà và chính khí | Phân biệt bằng cách xem mạch đập có lực hay không lực |
3.- Về tốc độ mạnh đập | Tần số mạch đập nhanh hay chậm | Trì Sác | Để nhận ra chứng Hàn, hay nhiệt. | Phân biệt bằng hơi thở của thầy thuốc hoặc theo đồng hồ |
4.- Về nhịp đập của mạch | Mạch đập đều hay không | Kết Súc Đại (Đợi) | Để nhận ra khí lưu thông hay không | Phân biệt bằng mức độ đập đều hoặc không đều |
5.- Về thể tích mạch | Sóng mạch lớn hoặc nhỏ | Hồng (Đại) Tế (Tiểu) | Để nhận ra khí huyết suy hay thịnh | Phân biệt bằng thể to hay nhỏ của mạch. |
6.- Về hình thái sóng mạch | a.- Độ đập lưu loát, sóng mạch rõ, đều, trơn tru thế nào? b.- Độ dài hoặc yếu c.- Độ căng cứng | Hoạt Sáp Trường Đoản Huyền Khẩn Tán | Để nhận ra từmg trạng thái bệnh lý của Tạng, Phủ, Khí, Huyết | Phân biệt qua cảm giác về từng hình thù của các sóng mạch |
MẠCH CỦA YHCT (28 MẠCH)
Mạch gốc | Đặc điểm | Tên mạch C. Gốc | Hình thái mạch | Hội chứng tương ứng |
Sờ nhẹ đầu ngón tay | 1.- Phù | Đè tay xuống Mạch hơi giảm, nâng tay lên mạch lưu loát | Biểu chứng | |
2.- Hồng | Mạch đến như sóng cuộn khi đến mạnh khi đi yếu dần | Nhiệt thịnh | ||
3.- Nhu | Mạch nổi nhưng rất mềm | Hư chứng và thấp chứng | ||
4.- Tán | Mạch nổi mà tán loạn | Nguyên khí ly tán chân khí sắp mất | ||
5.- Khâu | Mạch nổi to nhưng rỗng bên trong, giống như ấn vào ống hành | Máu mất, âm bị tổn thương | ||
6.- Cách | Mạch nổi, có cảm cứng ở bề mặt nhưng trong rỗng | Tinh, huyết hư hàn | ||
Ấn tay nặng mới thấy | 7.- Trầm | Đặt nhẹ tay không thấy ấn nặng tay mới thấy | Lý chứng, chứng uất, thủy thũng. | |
8.- Phục | Ấn nặng tay đến tận gần xương mới thấy | Dương suy, tà khí bế. | ||
9.- Nhược | Nhỏ mềm mà chìm | Khí huyết không đủ | ||
10.- Lao | Ấn nặng tay mới thấy | Chứng “Thực” trong âm hàn, sán khí | ||
11.- Huyền | Căng thẳng mà dài như ấn vào dây đàn | Bệnh ở Can Đởm, đau nhức, đàm ẩm | ||
Chạm vào ngón tay như thiếu sức, không có sức | 12.- Hư | Ấn tay xuống không thấy có gì, nâng tay lên thấy mạch không có sức | Chứng hư, khí huyết hư | |
13.- Tế | Nhỏ như sợi chỉ thấy rõ dưới tay | Hư chứng, lao tổn, âm hư, thấp | ||
14.- Vi | Rất nhỏ, mềm như không có, mạch đập nghe không rõ | Hư chứng, phần lớn do dương suy bệnh nguy cấp | ||
15.- Đại (Đợi) | Mạch đập có lúc dừng như không thấy trở lại, chờ khá lâu mới thấy tiếp tục | Khí của tạng suy, bệnh do sợ hãi, gây ra tổn hại | ||
16.- Đoản | Đầu đuôi đều ngắn, thân mạch không thấy được dù ở mọi bộ vị | Có sức : thuộc khí uất, Không có sức : thuộc khí bị hư tổn | ||
Chạm vào ngón tay thấy có sức | 17.- Thực | Ấn tay xuống hoặc nâng tay lên đều thấy có lực | Chứng thực nhiệt tụ lại | |
18.- Hoạt | Mạch đi trơn tru, có cảm giác tròn trơn | Đàm, Thực nhiệt | ||
19.- Khẩn | Giống như dây thừng vặn xoắn | Hàn chứng, thống Phong | ||
20.- Trường | Đầu đuôi thẳng suốt thân mạch thấy tràn quá toàn bộ vị mạch | Khí dương thừa, nhiệt chứng | ||
1 hơi thở của thầy thuốc mạch người bệnh đập không đủ 4 lần | 21.- Trì | 1 hơi thở, mạch đếm không đủ 4 lần | Chứng hàn | |
22.- Hoãn | 1 hơi thở mạch đếm 4 lần dáng khoan thai | Chứng thấp, tỳ hư | ||
23.- Sáp | Mạch đi rít vướng, không thông suốt, như dao cạo vào ống tre | Tinh tổn thương thiếu máu, khí huyết bị ứ trệ ngưng đọng | ||
24.- Kết | Mạch đi chậm mà có lúc ngừng, ngừng lại không theo 1 số nhất định | Phần âm vượng, khí bị ngưng kết lại | ||
Loại Mạch Sác (4 Mạch) | 1 hơi thở của thầy thuốc mạch người bệnh đập 5 lần trở lên | 25.- Sác | 1 hơi thở mạch đến từ 5 lần trở lên | Chứng nhiệt |
26.- Xúc | Mạch đi nhanh mà có lúc ngừng, ngừng lại không theo 1 số nhất định | Dương vượng nhiệt thịnh, đàm ẩm, khí huyết ngừng trệ | ||
27.- Tật | Mạch đi rất nhanh, 1 hơi thở mạch đập 7-8 lần | Dương tỏa hết âm bị kiệt, nguyên khí sắp hết | ||
28.- Động | Mạch ngắn như hình hạt đậu, mạch đi trơn nhanh, có sức | Đau đớn, kinh sợ |
PHÂN BIỆT MẠCH
Tuy các nhà mạch học đã cố gắng trình bày tương đối khá rõ về từng loại mạch, nhưng trên thực tế lâm sàng cho thấy, có nhiều mạch có nhiều điểm rất giống nhau, dễ gây lẫn lộn, vì vậy, có khá nhiều tài liệu bỏ công sức để cố gắng nêu lên những điểm phân biệt các loại mạch này. Chúng tôi dựa theo các tài liệu đó, sắp xếp lại như sau : Theo chương ?Thẩm Tượng Luận? sách ?Hồi Kê Mạch Học? thì có thể dùng 2 phương pháp SO SÁNH và ĐỐI LẬP để nêu lên những điểm giống và khác nhau giữa các mạch:
A- PHÉP SO SÁNH.
MẠCH ĐOẢN VÀ ĐỘNG
Đoản là mạch âm, không đầu, không đuôi, mạch đến trì trệ.
Động là mạch dương, không đầu, không đuôi, mạch đến nhanh và trơn.
MẠCH HỔNG VÀ THỰC
Mạch Hồng tựa như nước lụt, to, tràn đầy đầu ngón tay, nặng tay hơi giảm.
Mạch Thực thì chắc nịch, ứng dưới tay có lực, nặng nhẹ tay đều vẫn thấy như vậy.
MẠCH HUYỀN VÀ TRƯỜNG
Huyền giống như dây cung, căng thẳng, cứng đều mà không dội vào tay.
Mạch Trường như cây sào, vượt qua cả vị trí gốc mà lại không dội vào tay.
MẠCH NHU VÀ NHƯỢC
Mạch Nhu nhỏ mềm mà Phù.
Mạch Nhược nhỏ mềm mà Trầm.
MẠCH LAO VÀ CÁCH.
Mạch Lao có dạng Trầm Đại mà Huyền, chỉ ở đúng vị trí.
Mạch Cách có dạng Hư, Đại mà Phù, Huyền, trong hư ngoài cấp.
MẠCH PHÙ VỚI MẠCH HƯ VÀ KHÂU
Mạch Phù, nhẹ tay thì mạnh, nặng tay thì yếu.
Mạch Hư to mà vô lực, nhẹ hoặc nặng tay đều như nhau.
Mạch Khâu nhẹ hoặc nặng tay đều thấy rỗng ở giữa.
MẠCH SÁC VÀ KHẨN, HOẠT
Mạch Sác đi lại gấp rút, 1 hơi thở 6 chí.
Mạch Khẩn lan ra 2 bên ngón tay, giống như kéo dây thừng.
Mạch Hoạt đi lại lưu lợi, trơn tru như con tính chạy trên bàn.
MẠCH TRẦM VỚI PHỤC
Mạch Trầm đặt nhẹ tay hình như không thấy, ấn nặng mới thấy.
Mạch Phục ấn nặng tay cũng không thấy, đẩy tìm tới gân mới thấy.
MẠCH TRÌ VỚI HOÃN
Mạch Trì 1 hơi thở đi 3 chí, hình nhỏ mà yếu.
Mạch Hoãn 1 hơi thở đi 4 chí, hình to mà hòa hoãn.
MẠCH VI VỚI TẾ
Mạch Vi không bằng Tế, như có, như không, giống như sợi tơ nhện.
Mạch Tế hơi lớn hơn mạch Vi, ứng dưới tay rất nhỏ, như sợi chỉ mành.
MẠCH XÚC VỚI MẠCH KẾT, ĐỢI, SẮC
Mạch Xúc gấp rút, trong Sác thỉnh thoảng lại ngừng.
Mạch Kết thì trong Trì thỉnh thoảng lại ngừng.
Mạch Đợi thì Động mà khi ngừng rồi thì khó trở lại, có số ngừng nghỉ nhất định, không phải ngẫu nhiên.
Mạch Sắc thì Trì, Đoản, sít trệ, mạch đến rít như muốn ngừng 3 hoặc 5 chí (trong 1 hơi thở), không đều.
B- PHÉP ĐỐI LẬP
MẠCH HOẠT VÀ MẠCH SẮC
Theo sự thông hoặc trệ của mạch.
Mạch Hoạt là huyết nhiều, khí ít. Huyết nhiều cho nên mạch lưu lợi, trơn tròn.
Mạch Sắc là khí nhiều, huyết ít, vì vậy sít mà tán.
MẠCH HỔNG VÀ MẠCH VI
Theo sự thịnh suy của mạch.
Mạch Hồng : huyết nhiệt mà thịnh, khí theo đó mà bùng lên tràn đầy ở đầu tay, sức mạnh vọt mạnh, vì vậy Hồng là thịnh.
Mạch Vi : khí hư mà hàn, huyết theo đó mà sít lại, ứng với mạch nhỏ, muốn đứt, vì vậy Vi là suy.
MẠCH KẾT VÀ MẠCH XÚC.
Theo âm hoặc dương của mạch.
Dương cực thì Xúc, mạch nhanh, gấp mà có lúc ngừng.
Âm cực thì Kết, mạch đi chậm mà có lúc ngừng.
MẠCH KHẨN VÀ HOÃN
Dựa theo sức chùng và căng của mạch.
Mạch Khẩn là hàn, làm tổn thương phần vinh, huyết, mạch lạc bị kích bác nhau. Nếu gặp khi phong thoát khỏi thủy vọt tràn thì lại như cắt dây, kéo thừng.
Hoãn là phong, làm tổn thương phần vệ, khí, vinh huyết không thông, mạch không đi nhanh được, giống như bước đi chậm rãi.
MẠCH PHÙ VÀ TRẦM
Dựa vào sự thăng giáng của mạch.
Phù, bắt chước trời là khinh thanh, mạch nổi ở trên.
Trầm, bắt chước đất là trọng trọc, mạch chìm ở dưới.
MẠCH PHỤC VÀ MẠCH ĐỘNG
Mạch Động: thấy ở bộ quan, hình như hạt đậu lăn dưới tay, khác với ở các bộ khác.
Mạch Phục ở sâu vào trong không thấy hình mà ở dưới gân, xương.
MẠCH THỰC VÀ MẠCH HƯ
Dựa theo sự cương nhu của mạch.
Mạch Thực: đường mạch sung thực, ấn tay nhẹ hoặc nặng cũng đều hữu lực.
Mạch Hư: đường mạch đi yếu, không thấy có lực ở dưới tay.
MẠCH TRÌ VÀ MẠCH SÁC
Dựa theo sự nhanh chậm của mạch.
Mạch Sác: nhịp mạch đi nhanh.
Mạch Trì: nhịp mạch đi chậm.
MẠCH TRƯỜNG VÀ MẠCH ĐOẢN
Dựa theo sự dài ngắn của mạch.
Mạch Trường thấy ở bộ xích và thốn, có khi thông suốt cả 3 bộ.
Mạch Đoản chỉ thấy ở xích hoặc thốn.
Phải xem xét coi mạch có qua khoảng giữa (Quan) hay không. Qua khoảng giữa là Trường, không qua khoảng giữa là Đoản.
MẠCH LẠ (QUÁI MẠCH)
Ngoài các mạch chính đã trình bày ở trên, các nhà nghiên cứu về mạch còn nêu ra 1 số mạch gọi là ?Mạch Lạ? (Quái Mạch).
Từ đời nhà Nguyên (1277-1368), trong sách ?Thế Y Đắc Hiệu Phương? Ngụy Diệc Lâm đã nêu lên 10 loại mạch lạ gọi là ?Thập Quái Mạch? nhưng sau này, các nhà mạch học đã bỏ bớt 3 loại (Chuyển Đậu, Ma Xúc, Yển Đao) đi, còn lại 7 loại mạch lạ (Thất Quái Mạch) và hiện nay, đa số các sách đều chỉ nhắc đến 7 loại mạch lạ này mà thôi.
1- ĐAN THẠCH
Sóng mạch đi như đập vào đá (th&
PHỤ LỤC : CHẨN BỆNH QUA CÁC DẤU HIỆU BÁO BỆNH
Trong phần này, chúng tôi xin giới thiệu 1 phương pháp chẩn bệnh, tương đối mới, dựa theo 1 số những tài liệu xuất bản gần đây.
Phương pháp này, có quan hệ rất lớn đối với Tứ chẩn của YHCT nhưng đào sâu vào 1 số khía cạnh riêng biệt và độc đáo hơn.
Để giúp cho việc chẩn bệnh được hoàn hảo và chính xác hơn, cần biết 1 số yếu tố sau :
1.- Biết nguyên tắc báo bệnh.
2.- Biết ý nghĩa các loại dấu hiệu báo bệnh.
3.- Biết vị trí liên hệ đến vùng xuất hiện các dấu hiệu báo bệnh.
NGUYÊN TẮC BÁO BỆNH
Các nhà nghiên cứu sinh học nhận thấy rằng : chung quanh cơ thể mỗi sinh vật đều có năng lượng điện. Năng lượng này có thể đo được bằng
cách đặt 1 điện kế ở gần hoặc trên da. Cường độ năng lượng điện này thay đổi hàng giờ, hàng ngày (xem thêm phần ‘Giờ Vượng Suy Của Các Kinh Lạc’ trong chương ‘Học Thuyết Kinh Lạc’). Thời gian mà 1 người cảm thấy khỏe mạnh hoặc nhọc mệt đều có thể đo được bằng cách đo năng lượng điện. (Đây là 1 phương cách chủ yếu trong việc áp dụng đo các Nguyên huyệt của các đường kinh).
Ngay từ năm 1940, Kirlian, trong khi chụp hình các sinh vật, đã tình cờ khám phá thấy năng lượng điện này và gọi nó là chất Plasma sinh học (còn gọi là hào quang). Kirlian đã chụp được ở chung quanh các sinh vật có 1 giải ánh sáng đỏ, xanh trắng và vàng. Những lá cây vừa bị bứt ra khỏi cành cũng có biểu hiện đó, nhưng để lâu thì không còn.lá của những cây khỏe mạnh thì tỏa sáng, trong khi đó, lá của những cây bị bệnh biểu hiện bằng những màu sắc khác hẳn. Một hôm, 1 người khách nhờ Kirlian chụp hình 2 chiếc lá giống hệt nhau, Kirlian cố gắng chụp suốt cả đêm nhưng vẫn không làm sao không 2 lá giống nhau được. Kirlian nghĩ rằng ông đã thất bại. Ngày hôm sau, khi đưa những tấm ảnh ông đã chụp và giải thích sự cố gắng vô vọng của ông cho người khách thì người khách lại hết sức hài lòng và giải thích rằng : sự khác nhau giữa 2 lá cây trên là do 1 chiếc lá được bứt ra ở 1 cây có bệnh và chiếc còn lại ở cây không bệnh. Tại Liên Xô, khi nghiên cứu các tấm ảnh chụp cơ thể con người, các nhà nghiên cứu tại đại học Kiep nhận thấy rằng có những chấm ánh sáng mạnh hơn ở 1 số cơ thể. Những bộ phận phát ra ánh sáng đều giống nhau ở mọi người. Khi đem so sánh các tấm ảnh với những huyệt của khoa châm cứu thì thấy 700 huyệt của khoa châm cứu hoàn toàn trùng với những điểm có ánh sáng mạnh mà Kirlian đã chụp được.
Hiện nay có 1 cách chụp ảnh bằng cách đổi nhiệt ra các màu sắc khác nhau. Những bức ảnh nhiệt đó cũng thể hiện 1 thứ hào quang chung quanh cơ thể : những bộ phận “chết” như móng tay, tóc… thể hiện ra màu đen còn các màu khác hiện ra màu xanh lục, đỏ da cam… Nếu bộ phận nào của cơ thể bị bệnh thì màu sắc thay đổi, căn cứ vào sự thay đổi màu sắc, có thể phần nào biết được tình trạng của sự rối loạn cơ thể. Ngoài những biểu hiện về nhiệt lượng, màu sắc, ngày nay, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy nhiều sự thay đổi khác như thay đổi điện trở (Điện trở vùng huyệt bệnh xuống thấp hơn vùng khác) thay đổi trạng thái (trở nên mềm, hoặc cứng hoặc đau đớn hơn chỗ khác), hoặc xuất hiện 1 số dấu hiệu riêng biệt (tàn nhang, mụn ruồi, vết ban…) những dấu hiệu báo bệnh này đang được các nhà nghiên cứu chú ý đến và trong 1 ngày gần đây cơ chế của những lý thuyết này sẽ được loan báo 1 cách rõ ràng và hoàn hảo hơn.
Tuy nhiên, cho đến nay, những nhà nghiên cứu chỉ mới có thể cho biết rằng : các vùng ánh sáng thể hiện trong cơ thể chính là những bộ phận trong con người chúng ta biết được những thay đổi, thí dụ : thay đổi về điện trong không khí, về từ trường của trái đất, về sự xáo trộn của các bộ phận, cơ quan tương ứng vùng phát điện… Những thay đổi này nhiều khi quá nhỏ bé đến nỗi ta không cảm nhận hết tất cả những thay đổi đó, mà chỉ cảm nhận được 1 phần nào thôi. Thế nhưng, nếu ta rèn luyện và nắm được 1 số những nguyên tắc kỹ thuật, ta có thể nhận được những thông tin đó, có thể biết và cũng có thể diễn đạt được.
QUY LUẬT BÁO BỆNH
Khi cơ thể có sự xáo trộn (bệnh), sự xáo trộn đó được thông tin ra ngoài cơ thể dưới nhiều hình thức khác nhau, dựa theo 1 số quy luật nhất định. Dựa vào thông tin đó, có thể tìm ra được vị trí sự rối loạn và biết cách điều chỉnh lại cho hết rối loạn.
1.- Luật cục bộ : Xuất hiện ngay tại vùng bệnh.
Thí dụ : Dây thần kinh tọa đau : xuất hiện những thống điểm tại huyệt Hoàn Khiêu hoặc dọc theo mặt ngoài chân (theo đường kinh Đởm).
2.- Luật lân cận : Xuất hiện gần hoặc quanh vùng bệnh.
Thí dụ : vùng sau gáy đau : xuất hiện thống điểm (điểm đau) tại huyệt Phong Trì, Thiên Trụ hoặc quanh vùng đó.
3.- Luật đối xứng : Xuất hiện ở vùng đối xứng với vùng bệnh (phương pháp này được áp dụng trong cách châm đối xứng theo trường phái của Nhật, và được mô tả trong Thiên “Mậu Thích” của sách Nội Kinh Tố Vấn.
4.- Luật phản chiếu : Khi cơ thể bệnh, các dấu hiệu báo bệnh sẽ xuất hiện ở những bộ phận cơ quan hoặc vùng phản chiếu tương ứng (các vùng phản chiếu gồm : mặt, tai, đầu, mũi, lòng bàn tay, lòng bàn chân).
Thí dụ : Bệnh ở phổi sẽ xuất hiện dấu báo bệnh ở :
– Vùng giữa má trên khuôn mặt.
– Vùng giữa xoắn tai dưới ở trong tai.
DẤU HIỆU BÁO BỆNH
Khi cơ thể có sự rối loạn (bệnh), ở các vùng tương ứng thường thấy có
dấu hiệu báo bệnh. Vì khuôn khổ tài liệu có hạn, chúng tôi chỉ xin giới thiệu 1 số dấu hiệu báo bệnh thường gặp trên lâm sàng thôi (muốn rõ chi tiết, xin tham khảo thêm ở các sách chuyên đề).
1.- Đau
Dấu hiệu thông thường nhất là đau. Khi ấn vào vùng nào đó thấy đau, tùy theo quy luật báo bệnh và vị trí tạng phủ liên hệ, có thể biết tạng phủ, cơ quan liên hệ đến vùng đó có sự rối loạn cần điều chỉnh. Thí dụ : ấn vào huyệt Phế du thấy đau, có thể đoán là Phế (phổi) người đó có sự rối loạn (cần điều chỉnh), phổi bị bệnh cách nào đó (theo quy luật cục bộ).
– Ấn vào vùng gò má trên mặt thấy đau, có thể đoán là Tim người đó có sự rối loạn (theo quy luật phản chiếu)…
Tùy theo tính chất ĐAU, có thể đoán chính xác hơn tính chất bệnh.
Thường có thể dựa theo tiêu chuẩn sau :
a) Ấn vào đau nhiều, đau dữ dội là biểu hiện của bệnh cấp tính thuộc thực chứng.
b) Ấn vào đau ít, đau ê ẩm là biểu hiện của bệnh mãn tính thuộc hư chứng.
Đau ở đây phải hiểu là vùng hoặc huyệt chỗ ta dùng que dò ấn vào để kiểm tra thấy chỗ đó đau nhiều hơn chỗ khác.
Tại sao khi bộ phận, cơ quan bị đau hoặc rối loạn, các vùng tương ứng cũng xuất hiện dấu hiệu đau ?
YHCT cho rằng : đau là do khí huyết trong cơ thể không lưu thông được 1 cách bình thường, bị ứ trệ gây nên đau, do đó, trong sách Nội kinh có ghi : “Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông” (Lưu thông thì không đau, đau là do không thông).
YHHĐ cho rằng : đau là do sự kích thích chất tinh thể lắng đọng ở vùng thần kinh phản xạ của bộ phận hoặc cơ quan bị đau và sự đau là sự lưu thông không hợp giữa các chất lỏng truyền từ thần kinh phản xạ ở vùng tương ứng đến bộ phận cơ quan đang bị xáo trộn.
Mỗi cơ thể là 1 sinh vật có sức sống khác biệt, do đó tính chất đau cũng biểu hiện khác nhau : có người có cảm giác đau nhiều, có người chỉ thấy hơi đau, có người lại cảm thấy đau rất ít so với các vùng khác.
Do đó tạm thời có thể đưa ra 1 số nhận xét sau :
– Khi dò (ấn) tìm huyệt (điểm) đau, cần phải tìm nhiều vùng khác nhau để tránh tình trạng khai mơ hồ của người bệnh (ấn đâu cũng thấy đau).
– Vùng (huyệt, điểm) nào càng đau nhiều, càng phản ảnh bệnh lý rõ và nặng hơn.
– Trong khi điều trị, nếu sự đau giảm dần, nghĩa là lúc đầu ấn vào rất đau, sau khi điều trị, sự đau giảm dần, có thể hiểu rằng bệnh hoặc sự xáo trộn ở các cơ quan, bộ phận tương ứng đã giảm. Ngược lại, sau khi điều trị các điểm đau vẫn còn thì phải xét lại phương pháp chẩn bệnh (có thể đã chẩn sai) hoặc cũng có thể là do kỹ thuật điều trị (châm cứu, dùng thuốc), chưa đạt yêu cầu.
Qua các điều trình bày trên, ta thấy đau là 1 phương thế tự nhiên báo cho ta biết cơ thể đang gặp sự rối loạn, trục trặc, để giúp ta tìm cách điều chỉnh lại thế quân bình cho cơ thể.
2.- Thay đổi điện trở ở da
Theo các nhà nghiên cứu về sinh lý học, con người luôn mang trong cơ thể dòng điện, khi cơ thể bệnh, (có sự xáo trộn về sinh lý) điện trở trong người cũng theo đó mà thay đổi. Dựa vào đặc tính trên, với các thiết bị khoa học, các nhà kỹ thuật đã chế tạo ra các máy dò Huyệt.
Khi cơ thể bệnh, vùng huyệt tương ứng với các bộ phận, cơ quan bệnh sẽ bị giảm điện làm cho điện trở vùng huyệt đó sẽ bị giảm xuống và sự thay đổi này được các máy dò huyệt khám phá thấy. Từ những vùng tương ứng nhất định, ta sẽ có thể suy đoán ra cơ quan, bộ phận liên hệ bệnh.
Thí dụ : Nơi người bình thường, huyệt Hợp cốc có điện trở 70-90 Ohm ( ) khi đo thấy điện trở ở huyệt này lên trên 100-200 Ohm ( ), có thể nghĩ rằng Kinh Đại trường và Đại trường của người đó bị trở ngại gì đó (vì Hiệp cốc là nguyên huyệt của kinh Đại trường).
Ngoài ra, dựa vào 1 số biểu hiện ngoài da, trên lâm sàng hay gặp các dấu hiệu sau:
3.- Vết Ban
Ban là những nốt nhỏ xuất hiện trên da, thường có màu đỏ hoặc trắng (trên lâm sàng, thường gặp nhất là loại Ban màu đỏ). Vì hình dáng và màu sắc trên, nên thường lầm lẫn với nốt muỗi cắn. Tuy nhiên có điểm khác biệt như sau :
TÍNH CHẤT | VẾT BAN | VẾT MUỖI ĐỐT |
Màu sắc | Đỏ hoặc hồng | Hồng |
Kích thước | Nhỏ, không có lan tỏa | To và có tác dụng lan |
Sức ấn | Ấn mạnh vào không giảm màu | Ấn mạnh vào có màu trắng, lợt hơn |
Ý nghĩa : Khi có vết Ban xuất hiện thì đó là dấu hiệu sắp phát bệnh. Thí dụ : vùng phổi ở mặt (ở giữa má), tự nhiên có vết Ban xuất hiện, có nghĩa là phổi người người đó sẽ gặp trục trặc và sẽ xuất hiện trong vài ngày tới (có thể là ho, tức ngực, đờm…) tùy theo màu sắc (đậm hoặc lợt), có thể đoán được thời gian xảy đến :
+ Màu lợt : xuất hiện bệnh chậm, có thể vài ngày sau.
+ Màu đậm : bệnh xuất hiện đến nơi.
Dấu hiệu báo bệnh càng đậm, thời gian xuất hiện bệnh càng nhanh, (về cơ chế xin xem thêm phần “Bì Chẩn – Xem Da”).
4.- Tàn nhang
Tàn nhang là những vết nằm sát mặt da, sờ không thấy nổi cộm, nhỏ, mọc đơn hoặc thành từng đám lấm tấm trên da, màu đen, màu nâu đậm hoặc lợt, giống như màu của cây nhang sau khi đốt cháy để tàn (tro) lại, do đó gọi là tàn nhang (tro của cây nhang).
Đây là loại báo bệnh thường gặp trên lâm sàng nhất. Một vết tàn nhang, dù nhỏ hoặc rất nhạt đều là dấu chỉ của 1 bệnh đã và đang xảy ra. Dấu vết càng lớn, màu càng đậm thì cơ quan tạng phủ ở vùng tương ứng càng bị nặng, bệnh lâu.
Thí dụ : Tàn nhang xuất hiện ở vùng lưng, ngang huyệt Vị du, có thể chẩn đoán là bao tử người đó đã và đang bị trở ngại, xáo trộn, có bệnh cách nào đó.
5.- Mụn ruồi
Mụn ruồi là 1 loại mụn mọc nổi trên da, nhìn xa xa thấy giống hình dáng con ruồi, nên đặt tên là mụn ruồi.
Nhiều người phân ra loại mụn ruồi sống (sinh) và mụn ruồi chết (tử). Tuy nhiên, trên lâm sàng, hầu như cả 2 loại này đều cùng 1 biểu thị như nhau (chỉ có khác biệt trong ngành tướng số học là thấy rõ hơn).
Mụn ruồi báo hiệu 1 tình trạng bệnh nặng, xấu.
Khi mụn ruồi xuất hiện ở vùng nào thì cơ quan, tạng phủ liên hệ đã bị bệnh 1 thời gian khá lâu rồi.
Ghi chú :
a) 1 số người nêu lên yếu tố tàn tật khi gặp mụn ruồi. Cụ thề là khi có dấu hiệu báo bệnh mụn ruồi xuất hiện ở vùng tương ứng, với tay, chân ở vùng phản chiếu trên khuôn mặt (Lông mày, cằm…) thì cho là tay chân có thể bị tật, gẫy, cụt… Cần hết sức lưu ý và cẩn thận khi nêu lên yếu tố tàn tật này, vì thực tế trên lâm sàng cho thấy, có nhiều người có mụn ruồi ở các vùng trên, cho đến chết vẫn không thấy xuất hiện tật gì cả.
b) Dấu hiệu mụn ruồi có 1 đặc điểm khác thường là hay xuất hiện theo luật đồng bộ. Giả sử : vùng lông mày trên khuôn mặt (tức là tính theo quy luật phản chiếu) có dấu hiệu mụn ruồi thì ở cánh tay cơ thể cũng xuất hiện mụn ruồi ở vùng tương ứng. Cũng có nhiều trường hợp không xảy ra theo đúng quy luật trên nhưng tỷ lệ đạt được khá cao, thường từ 80-85% xảy ra theo quy luật trên. (Đây cũng là điều cần lưu ý nghiên cứu thêm).
Ngoài ra, trên lâm sàng cũng có thể gặp loại mụn ruồi có lông, tức là loại mụn ruồi nhưng lại mọc thêm lông.
Mụn ruồi có lông thường là dấu hiệu rất xấu, biểu hiện của bệnh nặng, trầm trọng, kéo dài và khó có thể điều trị được.
Mụn ruồi có lông thường gặp ở người bị ung thư. Tùy vùng tương ứng với vị trí xuất hiện mụn ruồi có lông có thể suy đoán ra bệnh ung thư hoặc bệnh nặng ở cơ quan, tạng phủ liên hệ.
6.- Vết Nám
Là 1 vùng da bị xám hoặc bầm lại.
Đây là loại dấu hiệu báo bệnh mãn tính, kéo dài lâu ngày thường gặp ở những người bị bệnh gan, thận lâu ngày.
Tuy nhiên có 1 số điểm cần lưu ý :
– Diện tích vết nám to, rộng thì bệnh lâu.
– Vết nám đậm màu thì mức độ trầm trọng, càng đậm bao nhiêu thì càng trầm trọng bấy nhiêu.
– Vết nám nhạt thì bệnh nhẹ, sắp khỏi.
Do đó, có thể dựa vào tính chất thay đổi của màu sắc mà kiểm tra diễn tiến bệnh. Thí dụ : khi bắt đầu chữa, vết nám đậm màu, sau 1 thời gian điều trị, vết nám nhạt màu dần thì có thể biết là bệnh đang trên đà tiến triển, có hy vọng phục hồi. Ngược lại, sau 1 thời gian điều trị, vết nám không thay đổi màu sắc hoặc đậm hơn… dù có những triệu chứng bệnh giảm, có thể hiểu là bệnh ở bên trong không tiến triển tốt, và bệnh đang phát triển ngầm cách nào đó.
– Vết nám lan tỏa thì bệnh có tính cách lan tỏa ra các cơ quan bên cạnh chứ không ở vào 1 cơ quan nhất định.
7.- Tia máu dưới da
Có hình dạng như 1 đoạn tĩnh mạch hoặc động mạch nhỏ xuất hiện dưới da.
Tĩnh mạch dưới da có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức rõ (nổi) hoặc chìm (khó thấy), có người chỉ cần nhìn cũng thấy, có người phải đè căng da mới thấy. Nếu xuất hiện ở vùng trán, 2 bên Thái dương, phía dưới ở mắt hoặc ở gò má, hoặc ở vùng 2 bên nhân trung và đầu mũi thường dễ nhận thấy hơn.
Tia máu dưới da thường biểu hiện bệnh mãn tính (lâu ngày) và trầm trọng, hay gặp ở những Thần kinh suy nhược.
Dấu hiệu này xuất hiện ở đâu thì nơi đó thường có sự bế tắc về bài tiết hoặc bài tiết quá độ.
Tia máu màu đỏ thường biểu hiện sự viêm nhiễm.
Tia máu màu xanh thường chỉ sự ứ trệ bài tiết.
Trên đây là 1 số những dấu hiệu báo bệnh thường hay gặp. Lẽ dĩ nhiên còn rất nhiều hình thức báo bệnh khác trên lâm sàng có thể gặp mà vì điều kiện chưa đủ để cho phép đề cập đến trong tài liệu này (Đây cũng là 1 điều rất đáng lưu ý và nghiên cứu thêm).
Tuy nhiên, cần lưu ý thêm 1 số vấn đề :
a) 1 số dấu hiệu báo bệnh có liên hệ đến yếu tố tuổi tác. Thí dụ : người ta thấy rằng mụn cơm (Nevi) có liên hệ đến chứng lão suy, vì khi người ta càng lớn tuổi thì những vết thâm nhiễm này càng không ngừng gia tăng, do đó không thể căn cứ trên sự gia tăng đó mà chẩn đoán bệnh gia tăng hoặc khó điều trị.
b) Bình thường cơ thể ta chịu đựng được với môi trường bên ngoài để bảo tồn và phát triển cơ thể, nếu vì lý do nào đó, cơ thể bị suy kém, lập tức có 1 sự “Điều tiết” cách nào đó cho thích nghi với môi trường bên ngoài và qua sự điều tiết đó, ta có thể phát hiện ra sự rối loạn ở các cơ quan, tạng phủ liên hệ.
Như vậy, tất cả các sự thay đổi ở da (vết nám, vết ban, mụn ruồi, mụn cơm , tia máu…) đều có thể cho thấy sự rối loạn hoặc suy yếu của 1 bộ phận, cơ quan, tạng phủ bên trong, tuy nhiên, không nên sợ hãi quá đáng về sự suy yếu này, chỉ cần ghi nhớ là : những {cqan tạng phủ liên hệ cần được lưu ý săn sóc đặc biệt hơn qua các dấu hiệu đó.
ƯU KHUYẾT ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP CHẨN BỆNH MỚI
Qua phần trình bày trên ta thấy :
1.- Ưu điểm
– Giúp cho việc chẩn đoán nhanh.
– Lợi hơn các phương pháp chẩn đoán khác vì không phải đòi hỏi nhiều dữ kiện, yếu tố, ở đây chỉ cần xem xét những dấu hiệu báo bệnh, nắm được nguyên tắc báo bệnh, ý nghĩa các dấu hiệu báo bệnh và vị trí vùng tương ứng là đã có thể phần nào thấy được sự rối loạn của các bộ phận trong cơ thể.
2.- Khuyết điểm
a) Không cho biết rõ về sự rối loạn của cơ thể. Thí dụ : thấy vết Ban hoặc tàng nhang ở vùng má (vùng phản chiếu của Phế trên khuôn mặt), có thể biết là Phổi người đó đang bị trở ngại, bệnh, nhưng cụ thể là rối loạn làm sao ? Bệnh gì ? (Viêm nhiễm, tràn dịch, tràn khí, đờm, áp xe Phổi) thì phương pháp này không thể biết được. Nếu muốn biết rõ, cần phải áp dụng phương pháp chẩn đoán khác.
b) Vấn đề khó khăn mà các nhà nghiên cứu đang tìm cách giải quyết là :
b1. Các dấu hiệu báo bệnh xuất hiện vào thời điểm nào : trước hoặc sau đang khi có sự xào trộn trong cơ thể.
b2. Đối với các vùng phản chiếu, vùng nào mang đặc tính báo hiệu nhanh nhất và chính xác nhất. Thí dụ : khi cơ thể bệnh, dấu hiệu báo bệnh sẽ xuất hiện ở mặt (theo cách phản chiếu ở mặt) hoặc ở tai (phản chiếu ở tai) hoặc ở chân tay (phản chiếu ở tay chân)… có khi dấu hiệu báo bệnh xuất hiện ở mặt, nhưng để tai, tay, chân, đầu, lại không thấy có dấu hiệu báo bệnh hoặc đôi khi ở 1 vùng nào đó có dấu hiệu báo bệnh mà vùng khác lại không có. Như vậy vùng nào đáng được coi là thì cậy nhất để tập trung chẩn đoán vào đấy ?
b3. Có những dấu hiệu báo bệnh, khi ta nhận thấy thì sự xáo trộn cơ thể đã xảy ra rồi.
b4. Cũng có những trường hợp dấu hiệu báo bệnh tuy đã xuất hiện nhưng chưa thấy có sự rối loạn ở bộ phận tương ứng.
b5. Có 1 số trường hợp, tuy có dấu hiệu báo bệnh nhưng dễ bị hiểu lầm. Thí dụ : Nốt ruồi, có người sinh ra đã có ngay những nốt ruồi, vết bớt… khó có thể cho rằng họ đã hoặc sẽ bị bệnh liên quan đến nốt ruồi hoặc vết bớt bẩm sinh đó được : nhiều người đã thấy có những dấu hiệu bẩm sinh đó nhưng suốt đời không hề thấy bị bệnh ở vùng cơ quan, bộ phận có liên hệ đến các dấu hiệu bẩm sinh đó.
KẾT LUẬN
Đây là 1 trong số nhưng phương pháp mới, vì mới nên chưa đủ điều kiện để thỏa mãn hết mọi yêu cầu đề ra, tuy nhiên, vì sự say mê nghiên cứu, cần đào tạo sâu hơn để phát triển phương pháp này cho hợp tình hợp lý hơn.