Xét nghiệm CRP là gì?
Trước khi tìm hiểu về xét nghiệm CRP, bạn cần nắm rõ về CRP. CRP (C Reactive Protein) là protein phản ứng C, một loại glycoprotein mà không xuất hiện trong cơ thể người khỏe mạnh bình thường. Chỉ tới khi một cơ quan hay vị trí nào xuất hiện tình trạng viêm nhiễm cấp tính thì các mô mới kích thích sản xuất và làm tăng nhanh loại protein này trong huyết thanh.
Theo đó, xét nghiệm CRP là xét nghiệm được chỉ định nhằm đo nồng độ Protein phản ứng C trong máu. Dựa vào kết quả xét nghiệm, bác sĩ có thể chẩn đoán bệnh nhân có bị viêm nhiễm cấp hay không.
Hàm lượng CRP tăng đáng kể trong khoảng 6 tiếng kể từ khi xuất hiện viêm nhiễm. Đó là lý do vì sao, xét nghiệm CRP được đánh giá là giúp phát hiện tình trạng viêm sớm hơn so với các phương pháp khác. Đây cũng là ưu điểm tiêu biểu nhất của xét nghiệm CRP.
Chỉ số CRP thường được chỉ định để xác định mức độ viêm nhiễm trong cơ thể.
Chỉ định thực hiện xét nghiệm CRP
Thường bác sĩ sẽ yêu cầu người bệnh thực hiện xét nghiệm CRP trong một số trường hợp dưới đây:
Kiểm tra tình trạng nhiễm trùng sau phẫu thuật: Theo dõi nồng độ CRP trong máu bệnh nhân sẽ thấy tăng một cách tự nhiên trong khoảng 2 – 6 tiếng đầu hậu phẫu và thường giảm xuống vào ngày thứ 3 trở đi. Do đó, nếu chỉ số CRP tiếp tục tăng kéo dài hơn 3 ngày sau phẫu thuật thì rất có thể ổ nhiễm trùng mới đã xuất hiện. Xét nghiệm CRP trong trường hợp này là vô cùng cần thiết nhằm đánh giá, theo dõi tình trạng viêm nhiễm.
Phát hiện và xác định nhiễm trùng ở các bệnh lý dễ bị viêm nhiễm: Cụ thể, các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, viêm tủy xương, lupus, ung thư hạch bạch huyết,… sẽ thường được bác sĩ chỉ định làm xét nghiệm CRP.
Đánh giá tình trạng điều trị có hiệu quả hay không, với các bệnh nhân điều trị ung thư hay bệnh lý nhiễm trùng.
Thường khám sau phẫu thuật nếu vết mổ bất thường, bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm CRP.
Chỉ số CRP thế nào là bình thường?
Đối với các trường hợp không có viêm nhiễm, CRP bình thường là dưới 0.3mg/100ml (hay 3mg/l) huyết thanh. Khi chỉ số này tăng cao có nghĩa là đang có viêm nhiễm cấp. Ngược lại, chỉ số này giảm xuống thì tình trạng viêm nhiễm giảm, bệnh nhân đang dần khỏe.
Chỉ số CRP liên quan đến vấn đề tim mạch
Đó là khi cơ thể xuất hiện viêm nhiễm hoặc bị tổn thương. Nồng độ CRP lúc đó có thể tăng lên đến khoảng 1000 lần. Nhưng đây cũng là yếu tố gây tăng mảng xơ vữa, gây tắc nghẽn động mạch vành,…
Ngược lại, nồng độ CRP giảm đồng nghĩa với LDL cholesterol (một loại cholesterol xấu) trong máu giảm. Và những bệnh nhân bị tim mạch mà có chỉ số LDL – cholesterol giảm xuống dưới 70mg/100ml thì sẽ ít bị tái phát bệnh tim. Còn nếu CRP giảm dưới 2mg/l thì nguy cơ tái phát cơn nhồi máu cơ tim sẽ giảm.
Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở phụ nữ có nồng độ CRP cao sẽ có nguy cơ bị bệnh tim mạch cao gấp 7 lần so với nhóm có nồng độ CRP thấp. Hơn nữa, khi chỉ số CRP tăng còn gây tích tụ mảng xơ vữa trong mạch máu lâu ngày kéo theo tình trạng viêm nhiễm nặng hơn. Nếu không được xử lý kịp thời, theo thời gian, các mảng này bị vỡ tạo thành các cục máu đông sẽ dẫn tới tắc nghẽn mạch máu, nhồi máu cơ tim, đột quỵ.
Chỉ số CRP có liên quan trực tiếp đến các vấn đề về tim mạch.
Việc xét nghiệm CRP với những đối tượng mà gia đình có tiền sử mắc bệnh tim mạch có ý nghĩa phát hiện sớm bệnh trước khi xuất hiện triệu chứng. Đồng thời, bác sĩ cũng đánh giá được tình trạng bệnh cụ thể và quyết định xem có phải can thiệp phẫu thuật không.
CRP được định lượng tính theo đơn vị mg/l máu và cụ thể kết quả như sau:
- Chỉ số CRP dưới 1 mg/l là bình thường: Nguy cơ mắc bệnh tim mạch thấp.
- CRP đạt từ 1 – 3 mg/l: Nguy cơ tim mạch ở mức độ vừa phải.
- CRP ở ngưỡng trên 3 mg/l: Nguy cơ tim mạch cao.
Chỉ số CRP tăng cao trong trường hợp nào?
Các trường hợp chỉ số CRP tăng cao trên 10mg/l thường là do sự xuất hiện của nhiễm trùng hoặc bệnh lý nào đó. Nó không dùng để đánh giá nguy cơ tim mạch mà chỉ áp dụng để phòng bệnh hoặc bổ sung chẩn đoán. Sau đó, bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm lại sau 2 tuần hoặc khi đã hết tình nhiễm trùng với mục đích đánh giá lại nguy cơ tim mạch.
Nếu chỉ số CRP tăng cao cần nghĩ ngay đến một số các phản ứng viêm cấp như: Viêm tụy cấp, viêm ruột thừa, bị bỏng, viêm ruột, viêm khớp dạng thấp, nhồi máu cơ tim, lupus ban đỏ hệ thống, viêm động mạch tế bào khổng lồ, ung thư Hodgkin,… Ngoài ra, một số trường hợp như chị em dùng viên tránh thai, giai đoạn cuối thai kỳ, người béo phì, chỉ số CRP cũng có thể tăng.
Chỉ số CRP cao có thể phản ánh tình trạng viêm ruột thừa, viêm ruột,..
Yếu tố ảnh hưởng tới xét nghiệm CRP
Kỹ thuật xét nghiệm CRP khá hiện đại và cho kết quả chính xác nhưng nó cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài như:
- Phụ nữ mang thai giai đoạn cuối thai kỳ.
- Chị em đang dùng thuốc tránh thai, hay liệu pháp hormone (uống thuốc bổ sung estrogen, progesterone).
- Người hút thuốc lá nhiều hoặc người béo phì, thường có nồng độ CRP tăng cao.
- Bệnh nhân huyết áp cao, bệnh nhân đái tháo đường hay nhiễm trùng mạn tính, chỉ số khối cơ thể (BMI) cao,… thường có chỉ số CPR cao.
- Sử dụng các loại thuốc fibrate, niacin,… có thể khiến nồng độ CRP bị giảm xuống.
Những người hút thuốc lá nhiều thường có nồng độ CRP cao hơn bình thường.
Kỹ thuật xét nghiệm CRP
Khi tiến hành xét nghiệm định lượng CRP, người bệnh không cần phải nhịn ăn uống gì cả. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt, bác sĩ mới yêu cầu người bệnh nên kiêng ăn trước khi xét nghiệm khoảng 4 – 12 tiếng.
Quá trình tiến hành xét nghiệm: Đầu tiên, kỹ thuật viên sẽ lấy lượng máu vừa đủ của người bệnh để mang đi xét nghiệm. Lấy máu kết thúc, bệnh nhân được băng ép lên vùng cắm kim tiêm để cầm máu.
Gợi ý cách đọc kết quả xét nghiệm CRP: Chỉ số này bình thường ở mức cho phép với người không bị viêm nhiễm là từ 0 – 1 mg/dL hay dưới 10 mg/L. Nếu viêm nhiễm nặng chỉ số này tăng rất cao, còn chỉ số này đang cao mà giảm xuống thì nghĩa là hiện tượng viêm nhiễm của bệnh nhân đã giảm.
Lưu ý độ chính xác của kết quả xét nghiệm CRP có thể bị ảnh hưởng do các yếu tố như đã nói ở trên.
Có thể nói, xét nghiệm CRP rất cần thiết trong các trường hợp kiểm tra, chẩn đoán tình trạng viêm nhiễm.
Nguồn: Bệnh viện Đa khoa Phương Đông